HỒI 40 - KHƯỚC THÍ VẤN – KỶ THỜI BẢ SI TÂM ĐOẠN
Thiên Long Bát Bộ (bản Mới)
Ai ơi tự hỏi lòng mình,
Bao giờ mới dứt nợ tình được đây?
o O o
Cưu Ma Trí biết rằng ra tay đấu vơi chú tiểu này, thắng cũng chẳng hay ho gì mà thua thì thiên hạ cười chê nhưng ở vào tình thế bắt buộc, không thể nào tránh né được, lập tức múa chưởng đánh ra, chưởng phong có tiếng vụt vụt véo véo, tư thế thủ pháp, chính là công phu thượng thừa của Bát Nhã chưởng.
Vi Đà Chưởng là võ công căn bản của phái Thiếu Lâm, đệ tử bái sư nhập môn, bài đầu tiên học là La Hán Quyền, bài thứ hai là Vi Đà Chưởng. Bát Nhã chưởng là chưởng pháp tối tinh áo, từ Vi Đà Chưởng học lên đến Bát Nhã chưởng, tuần tự nhi tiến, thông thường cũng phải mất ba bốn chục năm công phu. Bát Nhã chưởng là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, luyện rồi sẽ không bao giờ hết, chưởng lực càng luyện càng mạnh mẽ, chiêu số càng luyện càng tinh thuần, quả đúng là không bờ không bến.
Từ khi phái Thiếu Lâm thành môn lập phái, lấy Vi Đà Chưởng đấu với Bát Nhã chưởng thực chưa từng có bao giờ. Hai bên nông sâu tinh thô, đúng là hai thái cực của phái Thiếu Lâm, một nhà sư bậc tiền bối không bao giờ lại dùng Bát Nhã chưởng để đấu với một đệ tử mới học Vi Đà Chưởng, dù cho thầy trò mớm chiêu dạy dỗ, nếu sư phụ đã dùng Bát Nhã chưởng thì đệ tử ít lắm cũng phải dùng các loại Đạt Ma chưởng, Phục Hổ chưởng hay Như Lai Thiên Thủ Pháp... ra hầu tiếp.
Hư Trúc thấy chưởng lực đối phương ào tới, hơi nghiêng người tránh qua, song chưởng tống ra chính là một chiêu trong Vi Đà Chưởng, tên gọi Sơn Môn Hộ Pháp, chiêu thức tuy bình bình nhưng nội lực cực kỳ hồn hậu.
Cưu Ma Trí thân hình lưu chuyển, sử dụng hai môn Tụ Lý Càn Khôn, Vô Tướng Kiếp Chỉ nhắm đối phương điểm tới. Hư Trúc vừa lách qua, Cưu Ma Trí đã đoán trước được vị trí y di động, Đại Kim Cương quyền đánh ra, nghe bình một tiếng trúng ngay vai đối phương, Hư Trúc loạng choạng lùi về sau hai bước. Cưu Ma Trí cười ha hả nói:
- Tiểu sư phụ đã phục chưa?
Y liệu rằng chưởng đó có sức vỡ bia tan đá, ắt đánh gãy vụn xương vai của Hư Trúc rồi, ngờ đâu Hư Trúc có Bắc Minh Thần Công hộ thể nên chỉ cảm thấy đầu vai đau ê ẩm rồi lại tiến lên, song chưởng vung ra từ trái sang phải đánh chéo xuống một chiêu tên gọi Hằng Hà Nhập Hải, hai tay chứa đầy chân khí, thật chẳng khác gì một trận hồng thủy dâng tràn, cuồn cuộn đổ vào biển cả.
Cưu Ma Trí thấy y chịu mình đấm một quyền mà như không hay biết, song chưởng đánh tới lực đạo hồn hậu như thế, trong lòng không khỏi kinh dị ngầm, vung chưởng gạt qua, thân hình đi theo, hai chân đá liên hoàn, trong nháy mắt đã đá luôn sáu cái đều trúng ngực Hư Trúc. Đó chính là một trong các tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm gọi là Như Ảnh Tùy Hình Thoái, đá một cái thì chân sau như bóng với hình cũng ra theo, cú đá thứ hai vừa từ ảnh biến thành hình, chân bên kia lại như ảnh tiếp tục đá tới, đến cái thứ sáu Hư Trúc mới bật ngửa ra.
Cưu Ma Trí không để cho y kịp thở, liên tiếp tung ra hai chỉ, vụt vụt hai tiếng, chính là Đa La chỉ pháp. Hư Trúc xoạc cẳng xuống tấn đấm lại một cái, sử dụng chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm trong La Hán Quyền. Chiêu đó quyền pháp cực kỳ thô thiển, thế nhưng có Tiểu Vô Tướng Công phụ vào khiến cho ngón Đa La chỉ có sức xuyên kim phá thạch kia phải tiêu giải giữa chừng.
Cưu Ma Trí có ý phô trương, sử dụng Đa La chỉ xong, lập tức biến chiêu, một tay chém xuống, tuy chỉ tay không nhưng sử dụng chính là Nhiên Mộc Đao Pháp. Lộ đao pháp này khi luyện thành rồi, nếu chém vào một khúc gỗ khô chín chín tám mươi mốt đao liền, đao không làm khúc gỗ tổn hại nhưng phát xuất hơi nóng, có thể làm gỗ bốc cháy được. Năm xưa, sư phụ của Tiêu Phong là Huyền Khổ đại sư luyện được công phu này, từ khi ông viên tịch rồi, trong chùa không còn ai biết nữa. Nhiên Mộc đao pháp là phép sử đơn đao, khác hẳn với Hỏa Diễm đao pháp dùng lăng hư chưởng lực mà Cưu Ma Trí sử dụng ở Thiên Long tự.
Hiện giờ y dùng chưởng lực thay giới đao, hung hăng chém chặt, toàn là võ công của phái Thiếu Lâm. Một đao của y bổ xuống, nghe bộp một tiếng, tay phải Hư Trúc trúng chiêu, kêu lên:
- Nhanh thật!
Quyền bên phải liền đánh ra, vừa đến giữa chừng thì cánh tay đã trúng đòn. Chân lực Cưu Ma Trí dồn vào cạnh bàn tay nên y chặt xuống không khác gì đao thép, có thể đứt đầu đứt tay, thế nhưng tay phải Hư Trúc trúng liên tiếp hai lần mà vẫn như không, còn dội lại khiến tay y ngâm ngẩm đau.
Cưu Ma Trí kinh ngạc hết sức, trong lòng nghĩ ngay: “Gã tiểu hòa thượng này dù cho có luyện được Kim Chung Tráo, Thiết Bố Sam thì cũng không thể nào chịu nổi trọng thủ của ta, như thế là cớ gì? À, đúng rồi, chắc là bên trong tăng y gã có mặc bảo giáp hộ thân”. Y nghĩ đến việc đó, ra chiêu chỉ tấn công vào mặt, Đại Trí Vô Định Chỉ, Khứ Phiền Não Chỉ, Tịch Diệt Trảo, Nhân Đà La Trảo, liên tiếp sáu bảy môn công phu Thiếu Lâm, chộp vào mắt vào cổ họng Hư Trúc.
Cưu Ma Trí tấn công một loạt cực kỳ nhanh nhẹn như thế khiến cho Hư Trúc chân tay luống cuống, không sao chống đỡ được, chỉ còn nước thoái lui liên tiếp, đến Vi Đà Chưởng cũng không còn sử dụng nổi, chỉ đấm ra hết quyền nọ đến quyền kia duy nhất một chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm, nhưng mỗi quyền đều ép cho Cưu Ma Trí phải lùi lại nửa thước, nhưng chính vì cách xa nửa thước đó mà những chiêu số kỳ diệu của Cưu Ma Trí không trúng vào người y được.
Chỉ trong khoảnh khắc, Cưu Ma Trí đã sử dụng mười sáu môn tuyệt kỹ Thiếu Lâm, quần tăng xem mà hoa cả mắt, nghĩ thầm: “Người này tự xưng kiêm thông bảy mươi hai tuyệt kỹ bản phái, quả nhiên không phải là nói khoác”. Thế nhưng Hư Trúc chỉ dùng một môn La Hán Quyền để ứng phó, đối phương tấn công nhanh như điện nhưng cũng không biết cách nào biến chiêu, cứ Hắc Hổ Thâu Tâm rồi lại Hắc Hổ Thâu Tâm, trước sau có một chiêu cứ đánh ra mãi, quyền pháp vụng về, dẫu bọn võ sư đầu đường xó chợ trông thấy cũng phải bật cười.
Thế nhưng kình lực chứa trong chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm không ngừng gia tăng, hai người mỗi lúc một rời xa thêm, thủ chỉ thủ trảo của Cưu Ma Trí giờ đây đã cách Hư Trúc đến một thước.
Cưu Ma Trí cũng đã thấy được nội lực trong quyền của Hư Trúc có ngầm chứa Tiểu Vô Tướng Công mà xem ra còn cao hơn mình nhiều, có điều không biết sử dụng nên uy lực không phát huy được. Lại thấy Hư Trúc đánh ra một chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm nữa, đột nhiên thủ chưởng trầm xuống hai tay chộp ra đã nắm được quyền của Hư Trúc, chính là tuyệt kỹ Long Trảo Công của phái Thiếu Lâm, tay trái nắm ngón tay út của Hư Trúc, tay phải cầm ngón tay cái, vận lực bẻ ngược lên, toan bẻ gãy hai ngón tay của Hư Trúc.
Hư Trúc bị nắm hai ngón tay rồi, không còn có thể đánh ra chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm nữa, ngón tay đau nhói lên, tự nhiên sử dụng Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, cổ tay xoay một vòng, lật ngược tay lại nắm luôn cổ tay Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí vừa chộp trúng, đang mừng thầm, không ngờ tay đối phương lại sinh ra một luồng lực đạo quái dị, bắt ngược lại tay mình. Hiểu biết về võ học của y cực kỳ uyên bác nhưng lại không biết lai lịch của Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, trong bụng chột dạ, thấy cổ tay mình như bị giữ trong hai gọng kềm không cách nào giằng ra được nữa. Cũng may Hư Trúc hoảng hốt chỉ mong tự cứu mình không biết phản công, thành thử cứ khư khư giữ lấy cổ tay Cưu Ma Trí, chỉ mong sao y không còn bắt tay mình được nên không biết nắm vào mạch môn. Chỉ trong khoảnh khắc, nội lực Cưu Ma Trí đã phát sinh, y hơi giựt tay về rồi nhả tới, toan đánh rách hổ khẩu của Hư Trúc.
Bàn tay Hư Trúc tê đi, sợ đối phương thoát ra được rồi sẽ lại giở những thủ pháp lợi hại khác, vội vàng vận kình, Bắc Minh chân khí trong người như sóng triều dâng lên. Võ công y và Đoàn Dự vốn cùng một gốc nhưng chưa từng học cách hút nội lực người khác, thành thử tuy đã nắm được cổ tay Cưu Ma Trí rồi nhưng không hút được nội lực của y. Dẫu thế, Cưu Ma Trí ba lần vận kình vẫn không thoát ra được, trong bụng sợ hãi, tay phải thành chưởng phạt xéo xuống cổ Hư Trúc. Y trong cơn nguy cấp không còn nghĩ mình phải sử dụng võ công phái Thiếu Lâm, cú chặt ngang này là võ học của Thổ Phồn.
Hư Trúc vội vàng dùng tay trái sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng hóa giải, chưởng kế tiếp của Cưu Ma Trí vừa tới, Hư Trúc liên tiếp sử dụng lục dương chưởng chặn đứng thế đánh ào ào như gió táp mưa sa đối phương.
Lúc này hai người đứng sát nhau, đến tiếng thở của nhau cũng còn nghe thấy, khi đánh ra phải cong tay thu chỏ, mỗi chưởng chỉ ra chừng bảy tám tấc. Thế nhưng tuy gần thật, chưởng lực cũng vẫn mạnh phi thường. Cưu Ma Trí chưởng thanh vù vù, quần tăng ai cũng thấy lực tạt vào buốt như dao, khí lạnh phả vào người tưởng như đang ở trên đỉnh núi cao, gió bốn bề thổi tới. Những nhà sư bối phận tương đối thấp của chùa Thiếu Lâm dần dần cảm thấy chịu không nổi, ai nấy lùi lại sau, đứng sát vào tường. Những cao tăng hàng chữ Huyền không sợ chưởng lực tấn công nhưng cũng phải vận nội lực để chống lại.
Hư Trúc từ khi giải trừ Sinh Tử Phù cho quần hào ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo, sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng rất nhiều, bao nhiêu biến hóa đều thuộc như cháo chảy, lại thêm xem những đồ phổ trong thạch thất dưới hầm cung Linh Thứu nên đã hiểu hết những áo diệu trong đó. Có điều y chưa từng vận dụng để cùng người khác quá chiêu đối sách, lại ít tập luyện, vừa ra tay đã gặp ngay một cao thủ số một số hai trên đời, chưởng pháp tuy cao, nội lực tuy mạnh nhưng sử dụng chỉ được một hai thành mà thôi.
Cưu Ma Trí chưởng lực mỗi lúc một sát phạt, còn Hư Trúc thì chỉ mong tự bảo lấy thân nên chiêu nào cũng đều thế thủ. Y không có ý định bắt giữ Cưu Ma Trí, thấy đối phương võ công gấp mười mình, đơn chưởng tấn công đã lợi hại như thế, nếu để y dùng cả hai tay thì mình thể nào cũng táng mạng ngay tại chỗ thành ra sống chết nhất định giữ cổ tay Cưu Ma Trí không chịu buông để y không thể nào xuất chiêu bằng tay trái được.
Ý niệm đó của Hư Trúc tuy ngớ ngẩn thật nhưng lại thật hữu ích. Tay trái Cưu Ma Trí bị nắm rồi, y không còn có thể sử dụng song chưởng liên hoàn biến hóa, chiêu số hỗ tương đắp đổi. Chưởng pháp Hư Trúc vốn dĩ không thuần thục thành ra dùng một tay lại thấy thuận hơn dùng cả hai tay. Một người hai tay mất một, mười thành chỉ còn được năm, còn người kia công phu chỉ hai ba nay lại lên được thành bốn năm. Thời gian đốt một nén hương rồi, hai người trao đổi đã mấy trăm chiêu nhưng vẫn vào thế ngang ngửa.
Huyền Từ, Huyền Độ, Thần Sơn, Quán Tâm, Triết La Tinh... các cao tăng thấy Cưu Ma Trí tay trái bị nắm chặt, dãy dụa không thoát được, còn Hư Trúc dùng tay trái nên ở vào thế yếu, chỉ còn đỡ gạt, không cách gì đánh trả, hai người đều ở vào thế bên phải mạnh, bên trái yếu.
Lối đánh như thế, các cao tăng tuy biết nhiều hiểu rộng nhưng trong đời cũng chưa từng thấy bao giờ. Các cao tăng Thiếu Lâm lại càng vừa ngạc nhiên vừa lo lắng, Hư Trúc từ nhỏ lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, hạ sơn mới nửa năm, không biết học ở đâu ra những tài nghệ kinh người như thế đem về, thấy y nắm được kẻ địch rồi nhưng không chế ngự được, chưởng nào chưởng nấy của Cưu Ma Trí đều có thể đứt gân gãy xương, chứa đầy uy lực nội gia chân khí, nếu trúng phải thể nào cũng tắt thở chết ngay.
Lúc này trong chùa Thiếu Lâm, dù bất cứ ai nếu muốn giúp đỡ Hư Trúc, chỉ cần dùng một ngón tay đã có thể giết chết Cưu Ma Trí được rồi, thế nhưng cuộc đấu vốn không phải để giết chết đối phương, mà là để bảo vệ thanh danh phái Thiếu Lâm, nếu có ai tiến lên giết Cưu Ma Trí thì ắt sẽ tổn hại lớn đến tiếng tăm của ngôi chùa. Quần tăng ai nấy thấp thỏm lo âu, lòng bàn tay toát mồ hôi chăm chú quan sát hai người.
Lại trao đổi thêm trên trăm chiêu nữa, nỗi sợ trong lòng Hư Trúc lắng xuống dần, chỗ tinh diệu trong Thiên Sơn Lục Dương Chưởng càng lúc càng nhiều, mười chiêu thì thủ ngự chín nhưng cũng trả lại được một. Y tấn công một chiêu, Cưu Ma Trí dĩ nhiên phải chống đỡ, thế công không khỏi hơi lúng túng. Tuy chênh lệch chỉ một chút đỉnh nhưng kẻ đi lên, người đi xuống, càng lúc càng có lợi cho Hư Trúc. Lại thêm thời gian ăn một bữa cơm nữa, Hư Trúc đã có thể mười chiêu tấn công lại được ba, quần tăng Thiếu Lâm thấy y dần dần ra khỏi khốn cảnh không khỏi mừng thầm.
Từ khi Cưu Ma Trí xuất hiện, Thần Sơn thượng nhân trong lòng nảy sinh hai tâm tình đối nghịch, một mặt muốn cho Cưu Ma Trí tiêu diệt uy phong phái Thiếu Lâm, mặt khác lại không muốn phiên tăng dị bang đến Trung Thổ hoành hành như chỗ không người, nhưng khổ nỗi chính mình cũng không đủ sức chế phục y. Đến khi Cưu Ma Trí cùng Hư Trúc hai người vào thế giằng co không ai thắng, y lại mong hai người lưỡng bại câu thương, đồng qui ư tận, tuy ông ta không còn hi vọng có được tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm từ Ba La Tinh nhưng bí quyết Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương quyền đã nhớ trong lòng rồi, trở về chùa sẽ nghiên cứu thêm, một người thông minh trí tuệ như y sẽ có thể thêm thắt biến hóa, yếu chỉ tuy giống nhưng chiêu thức bên ngoài hoàn toàn khác hẳn, biến thành tuyệt kỹ của chùa Thanh Lương, mà mình thì sẽ thành tị tổ sáng tạo ra ba môn này.
Về phần Ba La Tinh cũng có một ý nghĩ khác. Trong thời gian qua, y nghiên tập Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương quyền, thấy bên trong vô cùng áo diệu. Hôm nay sư huynh Triết La Tinh đến đây đón y ra khỏi chùa, nghĩ những gì mình nhớ được chưa đầy một nửa thành võ công phái Thiếu Lâm, trở về cố hương tuy vui mừng thật nhưng thấy trong chùa cất giữ nhiều đồ quí giá như thế, một khi đã ra khỏi sơn môn rồi từ nay sẽ không còn bao giờ được quay trở lại lòng không khỏi bùi ngùi. Đến sau y lại thấy Hư Trúc đấu với Cưu Ma Trí, hai người nội lực hùng mạnh, chiêu số lạ kỳ, hoàn toàn không mò ra được chút đầu mối nào. Y có biết đâu Hư Trúc sử dụng không phải võ công phái Thiếu Lâm, lại tưởng một thanh niên tăng nhân trong chùa mà đã ghê gớm đến thế, mình vạn lý bôn ba, có cái duyên may được ra vào Tàng Kinh Các, thế mà chỉ nhớ được có vài bộ kinh thư đem về, tuy chẳng đến nỗi vào trong núi ngọc mà về tay không nhưng những gì mình lấy được không phải là thứ quí trọng thực sự, rồi đây e rằng cả đời sẽ ngày đêm âu sầu tiếc nuối.
Võ học cũng không khác gì cầm kỳ thư họa, Phật học, Dịch lý là những công phu phức tạp áo diệu, càng đi sâu vào nghiên cứu, càng thích thú, nếu đã thấy trên đời có người hơn mình một mức thì bằng trăm mưu ngàn kế nhất định phải xem cho bằng được. Ba La Tinh là một cao tăng Thiên Trúc rất có tài trí, khi mới đến chùa Thiếu Lâm thì chỉ có ý trộm võ kinh để đem về làm rạng rỡ cho võ học Thiên Trúc, đến khi thấy võ học chùa Thiếu Lâm bao la như trời như biển, đâm ra lưu luyến không muốn rời, chẳng còn tính chuyện về nước nữa.
Đến lúc này Hư Trúc đã tăng lên được thế công bốn phần, tuy vẫn còn phải chống đỡ nhiều, tấn công ít nhưng vì nội lực đã phát huy, những chiêu số độc địa của phái Tiêu Dao cũng hùng hổ đem ra sử dụng. Những người đứng xem chung quanh ai nấy không khỏi lạnh người, nghĩ thầm: “Nếu như ta trúng phải một đòn ắt sẽ chết một cách cực kỳ thảm khốc”. Xưa nay chưa bao giờ trong đệ tử tăng tục chùa Thiếu Lâm có một người đàn bà nào, bao nhiêu đời đều chỉ có một đường dương cương, nhưng vì là Phật môn võ công, ra tay chỉ nhằm chế địch chứ không phải để giết người, hoàn toàn tương phản với chiêu số của Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy. Huyền Từ và những cao tăng Thiếu Lâm thấy Hư Trúc sử dụng võ công đi dần vào chỗ âm hiểm độc địa, không khỏi cau mày.
Cưu Ma Trí liên tiếp vận cường kình ba lần, muốn thoát ra khỏi bàn tay phải của Hư Trúc, để sử dụng tuyệt kỹ Hỏa Diễm Đao, thế nhưng bên mình càng mạnh bao nhiêu thì chỉ lực của đối phương cũng tăng chừng ấy, trong cơn gấp gáp, sát ý nổi lên, tay trái vù vù vù đánh ra ba chưởng, Hư Trúc vung tay hóa giải, Cưu Ma Trí rụt tay về, khom người xuống, rút phắt trong vớ ra một con dao găm, đâm thẳng vào đầu vai Hư Trúc.
Sở học của Hư Trúc toàn là tay không sách chiêu, đột nhiên ánh sáng lóe lên, chủy thủ đã đâm tới, không biết cách nào chống đỡ được, vội vàng vung tay toan chộp luôn cổ tay phải Cưu Ma Trí. Chảo đó chính là cầm nã thủ pháp trong Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, vừa nhanh vừa chuẩn, ba ngón tay vừa chạm vào cổ tay y, ngón tay cái và ngón tay út đã cụp lại. Ngay lúc đó nội lực từ chưởng tâm Cưu Ma Trí nhả ra, chiếc dao găm liền phóng tới. Hư Trúc hai tay đang bận nắm hai cổ tay y, xoẹt một tiếng chủy thủ đã cắm ngập vào đầu vai, suốt đến tận cán.
Những nhà sư đứng xem ai nấy kinh hoảng kêu lên, bọn Quán Tâm không nhịn được lắc đầu, nghĩ bụng: “Với thân phận như Cưu Ma Trí, đấu không thắng được một thanh niên tăng nhân của chùa Thiếu Lâm thì thanh danh cũng đã đổ xuống sông xuống biển rồi, huống hồ lại dùng binh khí đánh lén nữa thì còn ra thể thống gì?”.
Đột nhiên từ trong đám đông vọt ra bốn nhà sư, thanh quang lấp loáng, bốn thanh trường kiếm cùng đâm vào yết hầu Cưu Ma Trí. Bốn nhà sư cùng nhảy ra, cùng xuất thủ, cả bốn thanh kiếm cũng cùng một phương vị, kiếm pháp cực nhanh lại cực kỳ độc địa. Cưu Ma Trí vận lực vào hai chân muốn nhảy ngược trở lại nhưng nhún mình rồi mà Hư Trúc vẫn đứng trơ trơ không chuyển động chút nào, lại thấy cổ họng đau nhói, bốn mũi kiếm đã đụng vào da thịt. Chỉ nghe bốn nhà sư cùng quát lên:
- Đồ mặt dầy không biết thẹn, mau nạp mạng đi.
Thanh âm trong trẻo, dường như tiếng đàn bà. Hư Trúc quay đầu nhìn, thì ra tứ tăng chính là Mai Lan Cúc Trúc, mặc tăng y chùa Thiếu Lâm đầu đội tăng mạo chùm hết làn tóc xanh, nên kinh ngạc vạn phần, kêu lên:
- Đừng hại mạng y!
Bốn cô gái cùng đáp:
- Vâng!
Tuy nhiên mũi kiếm vẫn kề vào cổ Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí cười ha hả nói:
- Phái Thiếu Lâm không chỉ cậy đông thắng ít mà còn ám tàng xuân sắc, mấy trăm năm thanh danh, hóa ra là thế, hôm nay ta mới được biết đến.
Hư Trúc trong lòng hoảng hốt, không biết phải làm sao bèn buông tay Cưu Ma Trí. Cúc Kiếm liền rút con dao cắm trên vai y, máu tươi vọt ra. Cô gái vội vàng bỏ kiếm xuống lấy trong túi ra chiếc khăn tay buộc vết thương cho Hư Trúc, còn mũi kiếm ba nàng Mai Lan Trúc vẫn kề vào yết hầu Cưu Ma Trí. Hư Trúc bàng hoàng hỏi:
- Các... các cô đấy ư? Sao lại đến đây?
Cưu Ma Trí chưởng bên phải vòng một vòng, thần công Hỏa Diễm Đao tung ra, keng keng keng ba tiếng, ba thanh trường kiếm gãy ra làm đôi. Ba cô gái kinh hãi nhảy vọt về sau một trượng, nhìn lại trên tay, trường kiếm người nào cũng chỉ còn một khúc. Cưu Ma Trí ngẩng mặt lên cười một hồi dài, quay sang nói với Huyền Từ:
- Phương trượng đại sư có còn nói gì được nữa hay không?
Huyền Từ mặt xám ngoét nói:
- Nguyên do ở bên trong, lão nạp quả không biết gì cả, để rồi sẽ tra hỏi ngọn ngành, theo giới luật bản tự mà xét xử. Quốc sư và chúng vị sư huynh đường xa mệt nhọc, xin mời vào khách xá dùng cơm chay.
Cưu Ma Trí đáp:
- Đã vậy thì xin phiền một bữa.
Nói xong y chắp tay cảm tạ, Huyền Từ cũng đáp lại một lễ. Cưu Ma Trí hai tay tạt sang hai bên, ám vận Hỏa Diễm Đao thần công, xoẹt xoẹt xoẹt xoẹt bốn tiếng, bốn nàng Mai Lan Cúc Trúc cùng hoảng hốt kêu lên, tăng mạo trên đầu không có gió mà rơi xuống, để lộ làn tóc mượt đen nhánh, mấy trăm sợi tóc theo mũ bay lả tả xuống.
Cưu Ma Trí hiển thị một chút công phu, vừa để khoe tài cắt đứt tóc mà không đả thương người, lại muốn cho mọi người thấy rõ bốn người là con gái khiến cho tăng chúng chùa Thiếu Lâm không còn cãi vào đâu được.
Huyền Từ mặt mày lại càng khó coi, chỉ nói:
- Chúng vị sư huynh, xin mời!
Thần Sơn, Quán Tâm, Dương Thiên, Dung Trí... các nhà sư thấy trong chùa Thiếu Lâm đột nhiên có nữ tử mặc tăng trang, ai nấy hết sức kinh ngạc, không nói gì Thiếu Lâm tự là một danh sơn cổ sát trước nay tiếng tăm danh vọng, mà dù chỉ là một cái miếu nhỏ cũng không đâu lại bỏ qua một hành vi phạm giới trầm trọng đến thế, bây giờ nghe Huyền Từ mời, đều đứng dậy. Tri khách tăng phân biệt đưa vào khách xá, dọn đồ chay lên.
Những khách ngoài chưa ra khỏi đại điện, Mai Kiếm đã nói:
- Chủ nhân, chị em tiểu tì tự ý hạ sơn đến đây hầu hạ, chủ nhân đừng trách nhé!
Lan Kiếm cũng nói:
- Gã thầy chùa Duyên Căn vô lễ với chủ nhân, chị em tiểu tì đã tẩn cho y một trận đích đáng, có thế y mới biết phải quấy, ôi, có ngờ đâu gã sư Tây Vực kia lại đả thương chủ nhân.
Hư Trúc “A” lên một tiếng, bấy giờ mới hiểu ra, Duyên Căn trước phách lối sau sun xoe, thì ra đã bị bốn chị em này bức bách, nếu như thế bọn họ giả làm sư, ẩn thân trong chùa cũng đã lâu, nhịn không nổi giậm chân nói:
- Phá rối thật! Phá rối thật!
Y quì xuống trước tượng Phật Như Lai nói:
- Đệ tử kiếp trước tội nghiệt thâm trọng, kiếp này lại không giữ được thanh qui giới luật, gây cho bản tự họa hoạn vô cùng, cúi xin phương trượng trách phạt thật nặng.
Cúc Kiếm nói:
- Chủ nhân đi tu làm gì cho khổ, tất cả bọn mình quay về Phiêu Miểu Phong đi, ở đây ăn toàn rau đậu, chẳng có chút mỡ màng, lại bị người ta quản thúc, chẳng thú vị chút nào!
Trúc Kiếm chỉ vào Huyền Từ:
- Này ông sư già kia, nếu ông mà nói gì đắc tội với chủ nhân thì bốn chị em ta không nể nang đâu nhé, ông khôn hồn thì phải biết giữ gìn.
Hư Trúc liên tiếp quát tháo chặn lại:
- Các ngươi không được vô lễ, sao lại vào trong chùa mà phá rối? Thôi! Im ngay.
Bốn chị em vẫn mỗi người một câu, ríu ra ríu rít, coi những vị cao tăng chẳng vào đâu. Quần tăng Thiếu Lâm lại càng kinh ngạc, thấy bốn cô gái giống hệt nhau, xinh đẹp vui tươi, hoạt bát lanh lợi lại vô pháp vô thiên không biết họ gốc gác ra thế nào.
Thì ra bốn cô gái là con của một nhà nghèo dưới chân Đại Tuyết Sơn, bà mẹ trước đã có bảy đứa con, lại mang thai sinh tư, không cách gì nuôi nổi, khi đẻ xong đem bỏ ngoài tuyết. Khi đó Đồng Mỗ xuống núi hái thuốc nghe tiếng trẻ khóc, gặp bốn đứa hài nhi mặt mũi giống hệt nhau, thấy thú vị liền đem về cung Linh Thứu nuôi cho khôn lớn, dạy cho võ công.
Bốn cô gái trước nay chưa hề xuống Phiêu Miểu Phong nên đâu có biết gì về nhân tình thế thái, vai vế lớn nhỏ? Cả đời họ chỉ nghe lời một mình Đồng Mỗ, đến khi Hư Trúc lên làm chủ nhân cung Linh Thứu thì họ lại hết tâm hết sức hầu hạ. Có điều Hư Trúc tính tình ôn hòa khiêm tốn, không như Đồng Mỗ đối xử với thuộc hạ dùng uy quyền thành thử họ không sợ Hư Trúc mà chỉ nghĩ rằng miễn sao trung thành tận lực với chủ nhân, chứ không hiểu làm náo loạn như thế có gì là không phải.
Huyền Từ nói:
- Ngoại trừ huynh đệ hàng chữ Huyền ra, tất cả lui về tăng phòng. Tuệ Luân ở lại.
Chúng tăng đồng thanh đáp ứng, theo thứ tự trên dưới một hàng đi xuống. Chỉ trong chốc lát, trong Đại Hùng Bảo Điện chỉ còn hơn ba chục lão tăng hàng chữ Huyền, sư phụ Hư Trúc Tuệ Luân, thêm Hư Trúc và tứ nữ Linh Thứu Cung.
Tuệ Luân quì ngay xuống trước Phật đài nói:
- Đệ tử giáo huấn không có phương pháp đến nỗi tọa hạ có một đứa nghiệt đồ như thế này, xin phương trượng phạt nặng.
Trúc Kiếm cười khúc khích nói:
- Cái thứ tài nghệ dở òm như ông mà đòi làm sư phụ chủ nhân ta ư? Đêm hôm trước ở trong rừng tùng, người bịt mặt khoèo chân ông ngã tám lần chính là nhị tỉ của ta đó. Ta bảo nè, công phu ông dở ơi là dở.
Hư Trúc kêu khổ ngầm: “Chết rồi! Chết rồi! Đến cả sư phụ ta mà bọn họ cũng còn chọc ghẹo nữa”. Lại nghe Lan Kiếm tiếp:
- Ta nghe Duyên Căn nói ông là sư phụ của chủ nhân nên đến thử ông chơi đấy thôi. Tam muội hôm nay không nói ra chắc là suốt đời ông chẳng biết người đã đẩy mình ngã bổ chững tám lần là ai đâu! Ha ha! Hi hi! Thích thật! Thích thật!
Huyền Từ nói:
- Huyền Tiệm, Huyền Quí, Huyền Niệm, Huyền Tịnh bốn vị sư đệ, xin đứng ra bảo bốn nữ thí chủ không được vọng ngôn vọng động.
Bốn lão tăng khom lưng đáp:
- Vâng!
Quay sang nói với bốn cô gái:
- Phương trượng pháp chỉ, xin bốn vị không được nói bậy làm càn.
Mai Kiếm cười nói:
- Bọn ta cứ muốn nói bậy làm càn, ông làm gì được nào?
Bốn nhà sư cùng nói:
- Vậy xin đắc tội!
Tăng bào vung lên, hai tay mỗi người chia ra chộp vào cổ tay bốn cô gái, Huyền Tiệm sử dụng Long Trảo Công, Huyền Quí sử dụng Hổ Trảo Thủ, Huyền Niệm sử dụng Ưng Trảo Công còn Huyền Tịnh thì dùng Thiếu Lâm Cầm Nã Thập Bát Đả, chiêu số tuy có khác nhưng đều là võ công tinh diệu của phái Thiếu Lâm. Trong bốn nàng ngoài Cúc Kiếm ra, trường kiếm đều đã bị Cưu Ma Trí đánh gãy rồi. Cúc Kiếm múa trường kiếm hộ vệ ba người chị em, Mai Lan Trúc ba nàng cũng múa kiếm gãy, theo kiếm quang của Cúc Kiếm tấn công ra.
Hư Trúc kêu lên:
- Vứt kiếm mau! Vứt kiếm mau! Không được động thủ!
Bốn cô gái nghe chủ nhân quát tháo đều ngạc nhiên, binh khí trong tay không còn dám sử dụng toàn lực nữa. Võ công bốn nàng vốn dĩ kém xa các cao tăng hàng chữ Huyền, vừa mất tiên cơ, lập tức bị bốn nhà sư nắm được ngay. Mai Kiếm dãy mạnh một cái nhưng không thoát phụng phịu nói:
- Bọn ta nghe lời chủ nhân mới nể nang các ông đấy thôi! Ui da! Đau quá, sao ông nắm mạnh thế?
Lan Kiếm cũng kêu lên:
- Giặc trọc con, có bỏ ta ra không nào?
Người nắm được cô ta là Huyền Quí đại sư, râu tóc bạc phơ, đã ngoài bảy mươi rồi, vậy mà cô ta gọi là “giặc trọc con”. Trúc Kiếm cũng nói:
- Ông không buông ta ra, ta gọi vợ ông ra chửi đó!
Cúc Kiếm nói:
- Ta nhổ nước miếng đó!
Cô gái phun một bãi nước bọt vào Huyền Tịnh, Huyền Tịnh nghiêng qua tránh, tay bóp lại, Cúc Kiếm đau đến kêu “Ui da! Ui da” liên tiếp. Đại Hùng Bảo Điện vốn là cõi Phật trang nghiêm, bỗng chốc thành nơi oanh kêu yến réo ầm ỹ cả lên.
Huyền Từ nói:
- Bốn vị nữ thí chủ chớ có nóng nảy, nếu còn nói nữa, bốn vị sư đệ hãy điểm vào huyệt câm của họ.
Bốn nàng nghe nói điểm vào á huyệt đều cảm thấy không thú vị gì, dẩu môi không dám nói gì thêm. Bọn bốn vị đại sư Huyền Tiệm liền buông tay họ ra đứng ở một bên giám thị. Huyền Từ nói:
- Hư Trúc, ngươi đem mọi chuyện đã xảy ra, từ đầu chí cuối nói cho mọi người nghe, không được giấu giếm gì cả.
Hư Trúc đáp:
- Vâng! Đệ tử thành tâm bẩm cáo.
Y kể lại được phương trượng sai đi gửi thiếp ra sao, gặp được Huyền Nạn. Tuệ Phương chúng tăng như thế nào, rồi vô tình lạng quạng làm sao giải được ván cờ Trân Lung để thành chưởng môn phái Tiêu Dao, Huyền Nạn làm sao chết vì chất kịch độc của Đinh Xuân Thu, bị A Tử đánh lừa cho phá giới ăn phải đồ mặn, đến khi gặp được Thiên Sơn Đồng Mỗ, vào trong hầm sâu hoàng cung nước Tây Hạ để rồi thành chủ nhân Linh Thứu Cung.
Y từng trải bao nhiêu chuyện rắc rối, mồm miệng lại vụng về, mất bao nhiêu là thời giờ, ấp a ấp úng mãi mới xong, tuy rằng lôi thôi dài dòng, nói không rõ ràng minh bạch nhưng không dấu một chút gì, kể cả chuyện cùng “người trong mộng” phạm vào dâm giới dưới hầm băng, cũng lắp bắp kể lại.
Các cao tăng càng nghe cành kinh ngạc, những gì gã tiểu đệ tử này gặp phải sao khéo léo lạ lùng, trong võ lâm trước nay chưa hề nghe thấy. Các nhà sư mới rồi chứng kiến y đấu với Cưu Ma Trí không còn hoài nghi gì những lời y vừa thuật lại, đều nghĩ thầm: “Nếu không phải y được ba đại cao thủ phái Tiêu Dao truyền thần công, lại không được học thần kỹ nơi vách núi cung Linh Thứu thì làm sao có thể chống trả được với tuyệt thế thần thông của quốc sư nước Thổ Phồn?”.
Hư Trúc kể xong, quay sang tượng Phật lạy phục xuống khấn:
- Đệ tử chướng ngại vô minh còn nặng, bụi trần chưa rửa sạch, vừa gặp phải ngoại ma thì đã không còn giữ nổi, liên tiếp phạm vào huân giới, tửu giới, sát giới, dâm giới, phản bội bản môn, học luyện võ công bàng môn ngoại đạo, lại khiến cho bốn vị cô nương vào trong chùa, làm bại hoại thanh danh bản tự, tội đại ác cực, chồng chất hết chuyện nọ chuyện kia, chỉ cầu xin lòng từ bi của Phật tổ, từ bi của phương trượng.
Y càng nghĩ càng đau lòng, nhịn không nổi khóc rống lên. Mai Kiếm và Cúc Kiếm cùng hứ hứ mấy tiếng, định lên tiếng khuyên y chẳng cần làm hòa thượng nữa. Huyền Tiệm, Huyền Tịnh hai người lập tức vươn tay, lẩn dưới ống tay áo nắm luôn cổ tay hai cô gái. Hai nàng không biết làm sao, lời đến cửa miệng lại rụt ngay về, lườm hai vị lão tăng, trong bụng chửi thầm: “Thầy chùa chết toi, đồ sư trọc thối”.
Huyền Từ trầm ngâm một hồi lâu rồi nói:
- Chúng vị sư huynh, sư đệ, những gặp gỡ của Hư Trúc phen này quả không phải tầm thường, có liên quan đến thanh dự hàng nghìn năm của bản tự, một mình bản tọa không thể nào quyết định được, xin các vị cùng góp ý.
Huyền Sinh dõng dạc nói:
- Khải bẩm phương trượng, lỗi lầm của Hư Trúc tuy lớn thật nhưng công lao cũng không phải ít. Nếu trong lúc nguy cấp không có y ngăn chặn gã Phiên tăng thì bản tự còn mặt mũi nào mà đứng trong võ lâm? Tên Phiên tăng kia bảo chúng ta giải tán, chạy qua đầu nhập các chùa Thanh Lương, Phổ Độ, thật là kỳ sỉ đại nhục toàn do Hư Trúc cứu vãn. Cứ như ý kiến tiểu tăng, bắt y sám hối những sai quấy khi trước để tiêu trừ tội nghiệp, sau đó cho vào Đạt Ma Viện nghiên cứu võ kỹ, từ nay không ra khỏi chùa, cũng không tham gia ngoại vụ như thế là đủ.
Đưa vào Đạt Ma Viện nghiên cứu võ học là một chức vụ cực kỳ tôn vinh của chư tăng, nếu không đạt tới cảnh giới võ công cực cao thì không có tư cách. Trong số hơn ba chục cao tăng hàng chữ Huyền, được vào nơi đây chỉ có tám người, ngay cả Huyền Sinh cũng chưa được vào. Ông ta đề nghị đưa Hư Trúc vào Đạt Ma Viện thực sự không phải là trừng trị mà là tưởng thưởng rất cao.
Thủ tọa Giới Luật Viện Huyền Tịch nói:
- Cứ như trình độ võ công của y thì vào Đạt Ma Viện cũng được rồi. Thế nhưng sở học của y lại là võ công bàng môn, trong Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm có thể dung được bàng môn cao thủ hay không? Huyền Sinh sư đệ đã nghĩ tới chi tiết này hay chưa?
Câu đó nói ra, quần tăng đều thấy ý kiến của Huyền Sinh xem chừng không ổn. Huyền Sinh nói:
- Thế theo sư huynh thì phải làm sao?
Huyền Tịch nói:
- Hừm, của ta ư! Ta thực không biết phải làm sao. Hư Trúc có công mà cũng có lỗi, có công thì thưởng, có tội thì phạt. Bốn cô nương này vào trong bản tự, mặc giả làm sư, không phải do chủ ý của Hư Trúc, mình nên nói rõ cho Cưu Ma Trí, Thần Sơn các vị đó hay, thế là xong. Họ tin cũng được, mà không tin cũng chẳng sao, chúng ta không thẹn với lòng, dẫu người ngoài có nghĩ xằng đoán bậy, thì cũng chẳng cần phải phí lời. Thế nhưng Hư Trúc bỏ môn phái đi học võ công bàng môn, chùa Thiếu Lâm e rằng không thể nào còn dung chứa y được nữa.
Ông ta nói vậy là có ý trục xuất Hư Trúc ra khỏi chùa. “Phá môn xuất giáo” là cách trừng trị nặng nhất của cửa Phật, quần tăng nghe nói thế, ai nấy đều thảng thốt. Huyền Tịch lại tiếp:
- Hư Trúc đã liên tiếp phạm những giới luật như thế, đúng ra là phải phế hết công phu rồi trục xuất sơn môn. Thế nhưng võ công của y vốn đã bị người ta hóa tán hết rồi, trên người y hiện giờ không phải là công phu bản môn nữa, chúng ta không có quyền phế bỏ.
Hư Trúc mếu máo cầu khẩn:
- Phương trượng, các vị thái sư bá, thái sư thúc, xin vì chư Phật mà từ bi khai ân, cho đệ tử có được một phen cải quá tự tân. Dù trách phạt cách nào, đệ tử cũng cam tâm nhận chịu nhưng đừng đuổi đệ tử ra khỏi chùa.
Các vị lão tăng người nọ nhìn người kia, không biết phải làm thế nào, nghe Hư Trúc nói thế, biết y thực sự thành khẩn sám hối. Những gì gọi là “bỏ đao đồ tể xuống là sẽ có đường thành Phật” hay “bể khổ không bờ, quay đầu là bến”, cửa Phật rộng mở, phổ độ chúng sinh dẫu là kẻ cùng hung cực ác, chấp mê bất ngộ cũng còn phải trăm phương nghìn kế điểm hóa cho y, huống chi là kẻ biết mình lầm đường quay về, lại là đệ tử xuất gia từ tấm bé, không lẽ không cho y một đường hướng thiện hay sao?
Chùa Thiếu Lâm thuộc về Thiền tông, xưa nay giảng về “đốn ngộ”, dù cho chửi Phật mắng tổ cũng không cấm kỵ, không như bên Luật Tông lúc nào cũng nghiêm thủ giới luật. Hôm nay nếu như không có người ngoài ở đây, chúng tăng thấy y thành tâm sám hối cũng không nỡ nào đuổi ra khỏi sư môn. Thế nhưng việc trước mắt không những liên can đến bọn Hồ tăng Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, mà cao tăng nhiều chùa lớn của Trung Nguyên như Thanh Lương, Phổ Độ cũng có mặt, nếu đối với Hư Trúc trách phạt không nghiêm, thiên hạ sẽ nói rằng chùa Thiếu Lâm bênh nhau, coi trọng môn hộ, không phân phải trái, chỉ nói chuyện võ công mà không cần biết đến giới luật, những lời đàm tiếu đó lưu truyền ra bên ngoài thì bao nhiêu thanh danh của chùa Thiếu Lâm đều đổ xuống sông xuống biển.
Ngay lúc đó một vị lão tăng được hai đệ tử đỡ hai bên, từ hậu điện chậm rãi đi vào, chính là Huyền Độ. Ông ta bị chỉ lực của Cưu Ma Trí đả thương, quay về tăng phòng nghỉ ngơi nhưng vẫn quan tâm đến kết cục hai bên giao đấu ở ngoài đại điện nên sai đệ tử chạy đi chạy lại nghe ngóng, đến khi nghe Cưu Ma Trí đã tạm thời bị đẩy lui, quần tăng chất vấn Hư Trúc có chiều kết tội nên vội bảo người đỡ vào Đại Hùng Bảo Điện nói:
- Phương trượng, cái mạng già của ta là do Hư Trúc cứu. Ta có một câu không biết có nói được không?
Huyền Độ tuổi tác đã cao, phẩm đức vốn được cả chùa kính trọng, Huyền Từ liền đáp:
- Mời sư huynh ngồi xuống, rồi từ từ nói chuyện sau, để khỏi động đến vết thương.
Huyền Độ đáp:
- Cứu mạng ta thì chẳng nói làm gì. Thế nhưng trước mắt có sáu chuyện lớn còn chưa giải quyết xong, nếu giữ Hư Trúc trong chùa thì rất có lợi, còn như đuổi y ra khỏi môn phái, cái đó... đó.. thật... khó.
Huyền Tịch nói:
- Sư huynh nói đến sáu việc trọng đại, việc thứ nhất là Cưu Ma Trí chưa đẩy lui xong, việc thứ hai là việc Ba La Tinh ăn trộm võ kinh của bản tự, việc thứ ba là việc tân nhiệm bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền đòi làm võ lâm minh chủ. Còn lại ba việc nữa xin sư huynh chỉ điểm cho.
Huyền Độ thở dài một tiếng nói:
- Tính mạng của Huyền Bi, Huyền Khổ, Huyền Thống, Huyền Nạn bốn vị sư đệ.
Ông vừa nhắc đến tên của bốn nhà sư, chúng tăng ai nấy chắp tay niệm Phật:
- A Di Đà Phật!
Mọi người nhận định rằng Huyền Khổ chết về tay Kiều Phong, còn Huyền Thống, Huyền Nạn là do Đinh Xuân Thu làm hại, hai kẻ đối đầu này quá mạnh, đại cừu chưa báo xong mà kẻ giết Huyền Bi là ai thì vẫn chưa biết được. Ai nấy chỉ biết Huyền Bi bị trúng phải Vi Đà Chử nơi ngực mà chết, Vi Đà Chử là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, chính là công phu Huyền Bi khổ luyện mấy chục năm. Trước đây họ vẫn cho rằng do nhà Mộ Dung Cô Tô sử dụng “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” để hạ độc thủ, về sau bọn Tuệ Phương, Tuệ Kính thuật lại việc kết giao với đám Công Dã Can, Đặng Bách Xuyên thì mới rõ họ Mộ Dung không có ý thù nghịch với võ lâm, mà bọn thủ hạ nhà Mộ Dung cũng không phải là phường gian hiểm.
Vừa rồi nhìn thấy thân thủ của Cưu Ma Trí, y biết sử dụng mọi tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm thì chiêu Vi Đà Chử kia dĩ nhiên có thể do y đánh, hoặc còn người khác cũng biết thì quả không có gì lạ.
Bốn vị cao tăng chết dưới tay ba kẻ đối đầu, chính thế mà Huyền Độ bảo là ba việc trọng đại. Huyền Từ nói:
- Lão nạp giữ chức phương trượng bản tự, thế nhưng trong cả sáu việc đại sự này, chẳng việc nào có thể giải quyết ổn thỏa, quả thực không còn mặt mũi nào. Có điều võ công trong người Hư Trúc, đều là võ công phái Tiêu Dao, không lẽ... không lẽ việc lớn của chùa Thiếu Lâm...
Ông nói đến đây, lời nói ngập ngừng đứt quãng nhưng quần tăng ai ai cũng hiểu, Hư Trúc võ công tuy cao thật nhưng là của bàng môn lẽ nào lại sai y đi giải quyết đại sự, người hiểu biết đều thấy rằng chuyện phái Thiếu Lâm do người khác làm, không dựa vào sức phái Tiêu Dao thì không xong, chẳng hóa ra nhẹ thể phái Thiếu Lâm hay sao? Dẫu rằng mình có che dấu thật toàn vẹn, người ngoài không biết nhưng đây toàn là cao tăng, lẽ nào lại làm hành động lừa dối kẻ khác?
Trong nhất thời các nhà sư ai nấy đều yên lặng. Qua một hồi sau, Huyền Độ mới nói:
- Thế theo ý kiến phương trượng thì phải làm sao?
Huyền Từ đáp:
- A Di Đà Phật! Chúng ta tiếp thừa y bát của liệt tổ liệt tông, hôm nay gặp phải chuyện khó khăn vô cùng to lớn, theo ý lão nạp thì cứ theo chính đạo mà hành sự, thà làm hòn ngọc vỡ chứ không làm viên ngói lành. Nếu mọi người tận tâm tận lực bảo vệ được danh dự chùa Thiếu Lâm thì cũng là nhờ lòng từ bi của chư Phật, phúc ấm của tổ tông, còn như ma thịnh đạo suy, lão nạp cùng chư huynh đệ dĩ mạng hộ giáo, dĩ thân tuẫn tự, miễn sao hỏi lòng không thẹn, không vi phạm chính lý của đạo Phật là đủ rồi. Chùa Thiếu Lâm trong nghìn năm qua tạo phúc cho thiên hạ không phải là ít, thiện duyên thâm hậu, dẫu có nhất thời bị tỏa chiết thì cũng không đến nỗi một chốc thành tro, không bao giờ còn có ngày hưng phục.
Câu nói đó tuy thật là bình hòa nhưng đầy chính khí. Mọi người ai nấy khom lưng nói:
- Cao kiến của phương trượng, xin tuân theo pháp chỉ.
Huyền Từ quay sang Huyền Tịch nói:
- Sư đệ, xin sư đệ chấp hành giới luật của bản tự.
Huyền Tịch đáp:
- Tuân lệnh!
Ông quay sang nói với tri khách tăng:
- Ra mời quốc sư nước Thổ Phồn và các vị cao tăng.
Huyền Độ, Huyền Sinh mọi người đều ngậm ngùi, tuy có ý muốn bảo hộ Hư Trúc nhưng phương trượng đã nói vậy, phải coi đại nghĩa là trọng, không thể để quyền nghi nhất thời hủy đi tiếng tăm giới luật của nhà chùa. Mọi người ai nấy đều rõ ràng, nếu tha tội cho Hư Trúc thì tuy thắng mà là bại, còn như theo công đạo mà chấp pháp thì dẫu bại cũng còn vinh. Phương trượng đã nhắc đến “ dĩ mạng hộ giáo, dĩ thân tuẫn tự” ấy là ý đã quyết một trận mất còn, không còn cầu may, Hư Trúc chịu tội cách nào không còn là việc quan trọng nữa.
Hư Trúc cũng thấy việc đã xong không còn có thể thu hồi, có khóc lóc van xin cũng vô ích, nghĩ thầm: “Mọi người ai cũng lấy thanh danh bản tự làm trọng, ta mình làm mình chịu, không thể để trước mặt người ngoài tỏ ra hèn nhát, khiến cho họ coi thường sư sãi chùa Thiếu Lâm”.
Một hồi sau, Cưu Ma Trí, Thần Sơn, Triết La Tinh tất cả cùng vào đại điện. Chuông đánh lên, hàng chữ Tuệ, hàng chữ Hư, hàng chữ Không quần tăng theo vai vế đi vào, đứng ở hai bên. Huyền Từ chắp tay nói:
- Xin thưa với quốc sư nước Thổ Phồn và liệt vị sư huynh: hàng chữ Hư của chùa Thiếu Lâm là Hư Trúc, thân phạm sát giới, dâm giới, huân giới, tửu giới tứ đại giới luật, lại đi học võ công phái khác, nhận làm chưởng môn bàng môn. Thủ tọa Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm Huyền Tịch, cứ theo đúng luật mà xét xử, không được nể nang.
Cưu Ma Trí và bọn Thần Sơn nghe nói thế ai nấy thật ngoài dự liệu, thấy Mai Lan Cúc Trúc mặc giả làm sư lại tưởng Hư Trúc chỉ lớn mật làm càn, oa tàng đàn bà con gái trong chùa, phạm vào dâm giới mà thôi, ngờ đâu phương trượng còn tuyên bố tội trạng còn nhiều hơn thế nữa. Đạo Thanh đại sư của chùa Phổ Độ đến tuổi trung niên mới xuất gia nên rất thông đạt nhân tình thế thái, lại thêm tính tình hiền hòa, thích giúp đỡ người khác, liền nói:
- Phương trượng sư huynh, bốn vị cô nương đây eo thẳng mi cau, lưng nhô cổ nhỏ, rõ ràng là xử nữ giữ mình như ngọc, vừa rồi khi ra tay đấu với quốc sư lại sử dụng công phu Đồng Trinh Công, người học võ chúng ta thấy là biết ngay. Hư Trúc tiểu sư huynh hành vi không kiểm soát cũng có thể dung tha được, hai tiền “dâm giới” e rằng có nặng quá không?
Huyền Từ nói:
- Đa tạ sư huynh vạch rõ. Hư Trúc phạm vào dâm giới, không phải chỉ ở bốn cô đây. Hư Trúc gia nhập phái khác, làm chủ nhân cung Linh Thứu trên Thiên Sơn Phiêu Miểu Phong, bốn cô này là hộ chủ thị tì của cung Linh Thứu, lén vào bản tự, cốt ý phụng sự tân chủ, Hư Trúc không hề hay biết. Chùa Thiếu Lâm canh gác không kỹ càng, quả thật đáng xấu hổ, không thể vì thế mà bắt tội y.
Đồng Mỗ võ công cao cường nhưng xưa nay chưa hề đặt chân vào Trung Thổ, chỉ giao thiệp với bàng môn dị sĩ, chúa động chúa đảo nơi biên cương hải ngoại thành thử cái tên Linh Thứu Cung, quần tăng mới nghe thấy lần đầu. Chỉ có Cưu Ma Trí ở Thổ Phồn là đã từng nghe đến, nhưng cũng không biết rõ ngọn ngành. Đạo Thanh đại sư nói:
- Nếu đã như thế, người ngoài không tiện xen vào.
Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, và Thần Sơn thượng nhân vốn dĩ không có thiện cảm với chùa Thiếu Lâm, nhưng thấy Huyền Từ xử sự công bằng, không hề lấp liếm, việc Hư Trúc phạm vào giới luật người ngoài vốn không hay biết nhưng ông vẩn nói toạc ra trước mặt mọi người, trong bụng không khỏi khâm phục.
Huyền Tịch tiến lên một bước dõng dạc hỏi:
- Hư Trúc, những tội phương trượng kể ra, ngươi có nhận không? Có gì biện bạch không?
Hư Trúc đáp:
- Đệ tử thừa nhận, tội nặng nghiệt lớn, không có gì để biện bạch, xin cam chịu thái sư thúc trừng phạt.
Quần tăng trong lòng hoang mang đưa mắt nhìn Huyền Tịch, không hiểu ông sẽ xử phạt thế nào. Huyền Tịch lại lớn tiếng nói:
- Hư Trúc phạm vào sát, dâm, huân, tửu tứ đại giới luật, phạt đánh một trăm côn ngay tại đây. Hư Trúc, ngươi có tâm phục không?
Hư Trúc nghe nói chỉ đánh một trăm gậy, so với những đại giới mình đã phạm thực không nặng chút nào, vội đáp:
- Đa tạ thái sư thúc từ bi, Hư Trúc tâm phục.
Huyền Tịch lại tiếp:
- Ngươi chưa được phương trượng và thụ nghiệp ân sư bằng lòng, dám học võ nghệ bàng môn, tội phạt phế hết võ công phái Thiếu Lâm, từ nay trở đi, không còn là đệ tử Thiếu Lâm nữa. Ngươi có tâm phục không?
Hư Trúc lòng đau như cắt, biết rằng không còn có thể van xin gì được nữa đành nói:
- Đệ tử quả là đáng chết, thái sư thúc xử vậy thật là công chính.
Những nhà sư phái khác mới rồi thấy y kịch đấu với Cưu Ma Trí, dùng Vi Đà Chưởng và La Hán Quyền đại hiển thần uy, vì không ai biết võ công chân chính của y ra sao nên đâu biết rằng y sử dụng không phải chỉ của Thiếu Lâm mà thôi. Cưu Ma Trí tự xưng một thân tinh thông đủ bảy mươi hai tuyệt kỹ, thực ra chỉ là chiêu thức bên ngoài, còn nội công chân chính của phái Thiếu Lâm y biết rất ít. Hư Trúc khi đấu với y sử dụng Tiểu Vô Tướng Công, y dĩ nhiên biết rõ, thế nhưng còn Bắc Minh chân khí, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ các loại cao thâm, y lại tưởng đó cũng là võ công phái Thiếu Lâm, nghe Huyền Tịch nói phế trừ võ công Thiếu Lâm của Hư Trúc, trong bụng khấp khởi mừng thầm nghĩ bụng: “Các ngươi tự xô đổ bức trường thành, trừ cho ta cái mối lo tâm phúc, thực hay biết mấy”. Giác Hiền, Đạo Thanh mấy vị cao tăng thì lại suýt xoa trong lòng: “Tiếc quá! Tiếc quá!”.
Huyền Tịch lại tiếp:
- Ngươi đã là chưởng môn phái Tiêu Dao, làm chủ nhân cung Linh Thứu Phiêu Miểu Phong, thì phải xuất giáo hoàn tục, không còn là đệ tử cửa Phật nữa, từ nay trở đi ngươi không còn là tăng lữ chùa Thiếu Lâm nữa. Ta xử như thế, ngươi có tâm phục không?
Hư Trúc không cha không mẹ, xuất gia từ khi ấu thơ, lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, yếu chỉ Phật pháp tuy lãnh ngộ không nhiều nhưng chùa Thiếu Lâm là nơi duy nhất mà y từng an thân lập mệnh, nay bị trục xuất khỏi chùa, buồn bã không sao kể xiết nước mắt chảy như mưa, phục xuống nức nở, nghẹn ngào nói:
- Chùa Thiếu Lâm từ phương trượng đại sư trở xuống, chư vị thái sư bá, thái sư thúc, chư vị sư bá, sư thúc cho đến ân sư, ai ai cũng đối với đệ tử ân nghĩa thâm trọng, đệ tử chẳng ra gì, phụ lòng chư vị giáo huấn.
Đạo Thanh đại sư nhịn không nổi lại nói giúp:
- Phương trượng sư huynh, Huyền Tịch sư huynh, cứ như lão nạp thấy, vị tiểu Phất huynh này đi vào đường mê nhưng biết quay đầu lại, quả thực có bụng hối cải, sao không cho y một dịp đổi mới?
Huyền Từ đáp:
- Sư huynh chỉ điểm phải lắm. Thế nhưng cửa Phật rộng mở, nơi nào mà chẳng có chỗ dung thân? Hư Trúc, chúng ta phạt ngươi phá môn xuất tự nhưng không phải vì có ác ý muốn ngươi không còn theo đuổi việc tu hành. Trang nghiêm bảo sát trong thiên hạ, nào phải chỉ có hàng nghìn hàng vạn thôi đâu? Nếu quả ngươi vẫn có bụng qui y tam bảo, sau khi hoàn tục rồi vẫn còn có thể đến xin thế phát được cơ mà! Cũng mong ngươi được vào nơi danh tự, bái được cao tăng làm thầy, hoằng dương thệ nguyện, thanh tĩnh thân tâm sớm thành chính đẳng chính giác. Còn như sau này không xuất gia làm sư nữa, ở nhà làm một cư sĩ chuyên cần tu tập lục độ vạn hạnh thì cũng có thể chứng đạo, thành đại bồ tát, thành Phật được.
Ông nói đến khúc sau cùng, ngôn ngữ từ hòa khẩn thiết, có ý khuyên bảo ân cần. Hư Trúc lại càng đau lòng, hành lễ nói:
- Những điều giáo huấn của phương trượng thái sư bá, đệ tử không bao giờ dám quên.
Huyền Tịch lại nói:
- Tuệ Luân nghe đây!
Tuệ Luân tiến lên mấy bước, chắp tay quì xuống. Huyền Tịch nói:
- Tuệ Luân, ngươi thân là nghiệp sư của Hư Trúc, thường ngày dạy dỗ chểnh mảng, cái hại của tam độc lục căn không giảng giải cho kỹ càng, cho nên mới gây ra cái họa hôm nay. Tội ngươi đáng phạt ba mươi côn, vào diện bích sám hối trong Giới Luật Viện ba năm. Ngươi có tâm phục không?
Tuệ Luân run run đáp:
- Đệ tử... đệ tử tâm phục.
Hư Trúc vội nói:
- Thái sư bá, đệ tử xin được lãnh thay cho sư phụ ba mươi trượng đòn.
Huyền Tịch gật đầu nói:
- Nếu thế, Hư Trúc chịu tổng cộng cả thảy một trăm ba mươi côn. Chưởng hình đệ tử, lấy côn ra đây. Lúc này Hư Trúc không còn là sư chùa Thiếu Lâm nữa, gia hình không được nhẹ tay. Sau khi ra khỏi chùa rồi, Hư Trúc là chưởng môn phái khác, không còn dính dấp gì với bản tự nữa, người trên kẻ dưới trong bản phái phải giữ lễ kính với y.
Bốn tên chưởng hình đệ tử nhận lệnh đi ra, không bao lâu quay về đại điện, mỗi người cầm trong tay một cây gậy bằng gỗ đàn. Huyền Tịch vừa toan ra lệnh trừng phạt, đột nhiên một nhà sư ở ngoài hấp tấp đi vào trong điện, trong tay cầm một xấp danh thiếp dày, hay tay dâng lên giao cho Huyền Từ nói:
- Khải bẩm phương trượng, quần hùng Hà Sóc bái sơn.
Huyền Từ liếc qua danh thiếp, phải đến trên ba chục chiếc, trên đó đều là những anh hùng hào kiệt thành danh phương Bắc, đột nhiên cùng đến một lượt, không hiểu có chuyện gì. Chỉ nghe bên ngoài chùa tiếng người nói xôn xao, quần hào đã đến cổng rồi. Huyền Từ bèn nói:
- Huyền Sinh sư đệ, xin hãy ra ngoài nghinh tiếp.
Ông lại tiếp:
- Liệt vị sư huynh, khách quí quang lâm, việc thanh lý môn hộ của bản phái thôi xin hoãn lại một chút để khỏi khinh mạn người từ xa đến.
Ông nói rồi đứng lên đi ra phía màn cửa ngoài đại điện. Chẳng bao lâu, mấy chục hào kiệt được Huyền Sinh và tri khách tăng dẫn đường đã đến trước đại điện. Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Sinh mọi người tuy đều là những cao tăng cần tu Phật pháp, nhưng dẫu sao cũng là hảo thủ võ học, gặp được đồng đạo võ lâm, đều cảm thấy có sự gần gũi quyến luyến, lúc này gặp bao nhiêu là anh hùng hào kiệt đến đây, tuy đang gặp lúc thanh lý môn hộ, trong lòng buồn bực nhưng cũng cảm thấy phấn chấn tinh thần.
Quần tăng phái Thiếu Lâm ra ngoài hành đạo, bằng hữu bốn phương rất đông, những người đến đây không ít đã từng kết giao với những nhà sư hàng chữ Huyền, chữ Tuệ, chắp tay chào nhau, vui vẻ thăm hỏi chuyện cũ, nghênh đón vào trong đại điện, dẫn kiến với phía Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, Thần Sơn, Quán Tâm... Những người đó đều có tiếng tăm, quần hào dẫu chưa quen biết nhưng cũng ngưỡng mộ từ lâu.
Huyền Từ đang định hỏi xem có chuyện gì mà đến đây, tri khách tăng lại tiến vào bẩm báo, có mấy chục nhân vật võ lâm ở Sơn Đông, Hoài Nam đến bái sơn. Huyền Tiệm liền đi ra ngoài đón vào đại điện. Một hán tử đen đủi dõng dạc nói:
- Bang chủ Cái Bang mời chúng tôi đến xem trò vui, thế chính ông ta chưa đến hay sao?
Một gã khác giọng nhừa nhựa nói:
- Lão huynh việc gì phải nóng ruột? Đã đến đây muốn xem trò vui không lẽ còn sợ mất phần hay sao? Đương nhiên bọn tép riu chúng mình phải đến trước, còn vai chính thì đến muộn muộn một chút đã sao.
Huyền Từ lớn tiếng nói:
- Chư vị không hẹn mà cùng giá lâm tệ tự, chùa Thiếu Lâm quả thực vinh hạnh xiết bao. Có điều tiếp đãi không được chu đáo, xin rộng lòng tha thứ cho.
Quần hào cùng đáp:
- Không dám! Không dám! Phương trượng chẳng việc gì phải khách sáo.
Đến lúc đó những hào khách có giao hảo với quần tăng chùa Thiếu Lâm đã nói cho biết lý do tại sao họ lại đến. Ai nấy đều nhận được anh hùng thiếp của bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền nói rằng Cái Bang và phái Thiếu Lâm trước nay cùng đứng đầu võ lâm Trung Nguyên, hiện nay Trang Tụ Hiền mới đảm nhiệm chức vụ bang chủ Cái Bang, có ý muốn suy cử một vị võ lâm minh chủ, cùng lập ra những qui luật để tiện cho các đồng đạo tuân theo, định rằng ngày rằm tháng sáu sẽ đến chùa Thiếu Lâm để thương lượng cùng Huyền Từ phương trượng. Những người nhận được anh hùng thiếp thấy ngôn ngữ tuy khiêm tốn nhưng hầu như nói rõ ra rằng minh chủ võ lâm không phải là ta thì còn ai vào đây? Trang Tụ Hiền đến chùa Thiếu Lâm hiển nhiên muốn dùng võ công đánh bại quần tăng, áp đảo uy phong mấy trăm năm qua của ngôi chùa.
Trong thiếp cũng không mời quần hùng đến chùa Thiếu Lâm tham dự, thế nhưng nhân vật võ lâm nào chẳng hiếu động, đại sự Cái Bang và Thiếu Lâm tranh hùng á, ai ai chẳng muốn chính mắt được xem, đời nào chịu bỏ qua? Thành thử mọi người không hẹn mà cùng tấp nập đi tới. Khi đó trong điện câu cửa miệng của mọi người đều là:
- Trang Tụ Hiền là ai thế?
Ai cũng hỏi nhưng không ai có câu trả lời. Huyền Từ phương trượng và các sư huynh sư đệ đã hội thương mấy hôm liền, ai cũng đoán ngầm chắc Trang Tụ Hiền chính là Kiều Phong hóa danh, với võ công cơ mưu của y, muốn giết những trưỏng lão thù nghịch với y trong Cái Bang, đoạt lại chức vụ bang chủ không phải là khó khăn gì, nếu không Cái Bang và chùa Thiếu Lâm trước nay giao hảo, bỗng nhiên sao lại giở quẻ như thế này?
Kiều Phong đại chiến tại Tụ Hiền Trang thiên hạ ai ai cũng biết, y lại đổi tên thành Trang Tụ Hiền chính là ỡm ờ nói lên cái lai lịch của mình.
Chẳng bao lâu, anh hùng các vùng Lưỡng Hồ, Giang Nam cũng đều tới nơi, rồi tới Xuyên Thiểm, Lưỡng Quảng cũng lục tục kéo đến. Quần hùng Nam Bắc xa nhau hàng nghìn dặm, vậy mà chưa đầy một ngày cũng đều có đủ, hiển nhiên Cái Bang chuẩn bị kỹ càng, gửi anh hùng thiếp cả mấy tháng trước rồi.
Huyền Từ và chư tăng tuy miệng không nói ra nhưng trong bụng rất là bực bội, lại thêm lo lắng vì mấy hôm trước đã có người tự xưng là Trang Tụ Hiền bang chủ Cái Bang gửi thư đến nói muốn tuyển minh chủ võ lâm, lại nói nội trong ngày một ngày hai sẽ thân đến bái sơn để cung kính nghe lời giáo huấn của Huyền Từ nhưng trong thư không nói rõ ngày đó là ngày nào, cũng không đề cập đến việc có mời anh hùng thiên hạ, vậy mà đột nhiên quần hiền tụ tập khiến cho chùa Thiếu Lâm phải lúng túng không kịp trở tay.
Phái Thiếu Lâm tuy trên giang hồ quen biết rộng rãi, vậy mà không hay biết gì trước, thành thử chưa tỉ thí đã rơi vào thế hạ phong rồi. Việc này của Cái Bang thật không thể tưởng tượng nổi, họ không nói trắng ra là mời quần hùng vì không tiện thay mặt phái Thiếu Lâm đứng ra làm chủ nhưng gửi anh hùng thiếp nhiều như thế thực chẳng mời cũng thành ra mời. Các nhà sư ai nấy đều nghĩ bụng: “Cái Bang không mời bọn ta đến tổng đà của họ ngoài mặt thì làm ra cung kính đấy, nhưng bang chủ của họ lại tự mình đến đây, ắt hẳn muốn cho chùa Thiếu Lâm không chuẩn bị gì, đến đánh cho mình trở tay không kịp”. Huyền Sinh quay sang người bạn thân là Thần Đàn Tử Gia Cát Trung ở Hà Bắc nói:
- Hay nhỉ, Gia Cát lão huynh, lão huynh nghe được tin này lại không cho người mang tin đến cho ta, thôi cái giao tình ba mươi năm đến đây một bút sổ toẹt.
Mặt Gia Cát Trung đỏ bừng, luôn mồm phân trần:
- Ta … ta mới nhận được thiếp ba hôm trước, đến bát cơm đang ăn cũng còn bỏ dở, suốt ngày suốt đêm chạy đến đây, đi đường chết mất bốn con hảo mã, chỉ sợ lỡ ngày lỡ giờ, không kịp giúp cho bọn trọc thối các ngươi một tay, sao … sao lại trách ngược ta là cớ gì?
Huyền Sinh hừ một tiếng nói:
- Gớm ngươi tử tế nhỉ?
Gia Cát Trung nói:
- Sao lại không tử tế? Phái Thiếu Lâm nhà ngươi võ công cao thật, lão ca ca có đến dù chỉ hò hét trợ uy thì cũng đâu có phải là xấu xa gì! Phương trượng nhà ngươi dẫu sao thì cũng đã phát thiếp mời ta mồng chín tháng chín đến chùa Thiếu Lâm để gặp bọn Cô Tô Mộ Dung, ca ca chỉ đến sớm vài tháng, cũng đâu có gì là lầm lỗi với ngươi đâu.
Huyền Sinh lúc đó mới dịu xuống, hỏi ra mới biết những người nào ở xa thì nhận đựợc thiếp sớm, còn người nào gần thì nhận trễ hơn thành thử ai ai cũng chạy hộc tốc đến đây mới kịp. Bấy nhiêu bằng hữu mà không một ai đến báo trước được cho chùa Thiếu Lâm, đủ biết Cái Bang sắp đặt chu đáo, tính toán chính xác muốn đến được đây phải mất bao nhiêu thời giờ, khiến cho họ có muốn tới sớm hơn cũng không được. Quần tăng thấy như thế đủ biết Cái Bang đã tính toán rồi mới hành động, bang chủ và bang chúng chưa đến đã hư trương thanh thế hẳn là sẽ còn nhiều đòn lợi hại tiếp theo nữa.
Ngày hôm đó chính là ngày rằm tháng sáu, khí trời oi bức. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm vốn đã ứng phó với Thần Sơn thượng nhân và bọn Triết La Tinh các cao tăng, rồi kế đó đấu với Cưu Ma Trí, tra hỏi Hư Trúc, hao phí biết bao nhiêu tinh thần, đột nhiên bốn bề tám hướng anh hùng hào kiệt ùn ùn kéo đến, trong chùa sư sãi tuy đông thật nhưng việc quá gấp gáp, không khỏi lúng túng chẳng biết xoay trở ra sao. Cũng may thủ tọa Tri Khách Viện Huyền Tịnh đại sư là người tháo vát, lại thêm nhà chùa cũng phong túc, vật liệu tích trữ đầy đủ, quần tăng dưới quyền phân phối của Huyền Tịnh tiếp đãi mọi người cũng không đến nỗi khiếm lễ.
Bọn Huyền Từ nghênh tiếp tân khách tíu tít, không thì giờ đâu mà bàn thảo, chỉ đành chắc lưỡi than thầm. Bỗng nghe tri khách tăng chạy vào báo:
- Đoàn điện hạ Trấn Nam Vương nước Đại Lý đến.
Từ khi Huyền Bi đại sư trúng phải Vi Đà Chử mà chết, Đoàn Chính Thuần từng phụng mệnh hoàng huynh đến bái phỏng Huyền Từ phương trượng. Họ Đoàn Đại Lý là bằng hữu của chùa Thiếu Lâm, giời này đến quả thực được một trợ thủ mạnh mẽ, Huyền Từ trong lòng mừng rỡ nói:
- Đoàn vương gia nước Đại Lý cũng đang ở tại Trung Nguyên sao?
Ông vội vã dẫn mọi người ra nghênh đón. Huyền Từ đã từng gặp Đoàn Chính Thuần và các tùy tòng của ông như Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần hai lần, hàn huyên mấy câu rồi đưa vào trong điện, giới thiệu với quần hùng.
Người đầu tiên ông đưa đến gặp là quốc sư nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí. Đoàn Chính Thuần lập tức biến sắc, ôm quyền nói:
- Khuyển tử Đoàn Dự được Minh Vương yêu mến, dẫn qua phương Đông, nghe khuyển tử bảo rằng, trên đường đi được dạy dỗ rất nhiều, quả thật có ích lắm, Đoàn mỗ vô cùng cảm kích, nhân đây xin tạ ơn.
Cưu Ma Trí mỉm cười đáp:
- Không dám! Đoàn công tử sao không đi theo điện hạ đến đây?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Khuyển tử không biết lưu lạc nơi đâu? Không chừng lại rơi vào tay kẻ gian hay ác tăng nào, đang định thỉnh giáo quốc sư.
Cưu Ma Trí lắc đầu quầy quậy nói:
- Tung tích của Đoàn công tử, tiểu tăng quả thực không hay biết. Ôi, tiếc thay, thật tiếc thay!
Tim Đoàn Chính Thuần nhảy rộn lên, sợ không biết Đoàn Dự gặp chuyện gì bất trắc, vội hỏi:
- Lời của quốc sư nghĩa là làm sao?
Ông tuy đã từng trải nhiều biến cố nhưng vì khắc khoải chuyện an nguy của đứa con yêu, giọng không khỏi có chiều lo lắng. Mấy tháng trước hai cha con gặp nhau, sau đó Đoàn Dự đi tham dự hội cờ của Lung Á tiên sinh, ai ngờ trên đường về đi đâu mất, đã mấy tháng nay, Đoàn Chính Thuần không nhận được tin tức gì, e rằng anh chàng lại gặp phải độc thủ của Đoàn Diên Khánh, Cưu Ma Trí hay có khi Đinh Xuân Thu không chừng nên trong lòng lúc nào cũng bồn chồn.
Hôm đó ông nghe tin tân nhiệm bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền tính chuyện tranh đoạt chức võ lâm minh chủ với phái Thiếu Lâm, lập tức lật đật chạy đến, luôn thể tìm con. Họ Đoàn là một thế gia trong võ lâm nên việc tranh đoạt minh chủ võ lâm tại Trung Nguyên đương nhiên phải quan tâm. Cưu Ma Trí nói:
- Tiểu tăng tại Thiên Long bảo sát, được gặp Khô Vinh đại sư, phương trượng Bản Nhân cùng lệnh huynh, người nào cũng thần định khí nhàn, trang nghiêm an tường quả thực là hữu đạo chi sĩ. Trấn Nam Vương uy danh lừng lẫy thiên hạ, sao lại lưu luyến thâm tình có thái độ của đàn bà như thế?
Đoàn Chính Thuần cố gắng định thần nghĩ thầm: “Dự nhi nếu có gặp chuyện không may thì kinh hoảng cũng vô ích, lại khiến cho gã phiên tăng này coi thường mình”. Ông bèn đáp:
- Yêu thương con cái là chuyện thường tình của thế gian. Trên đời này nếu không sinh con đẻ cái, hú hí với nhau thì đâu còn ai nữa. Chúng tôi là kẻ phàm phu tục tử, sao sánh được với một vị cao tăng từ bi hữu đức như quốc sư tứ đại giai không?
Cưu Ma Trí mỉm cười nói:
- Tiểu tăng mới gặp lệnh lang thấy y góc trán gồ cao, biết y sau này thể nào cũng làm cho họ Đoàn rạng rỡ, rồi đây sẽ thành một vị minh quân thật là đại phúc cho bách tính cõi trời Nam.
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Không dám!
Ông nghĩ thầm: “Thằng giặc trọc này quả là đáng ghét, giả vờ nói chuyện đâu đâu để cho mình thêm nóng ruột”. Cưu Ma Trí thở dài một tiếng nói:
- Ôi, quả là đáng tiếc! Vị Đoàn quân kia tiếc thay phúc trạch lại không được dày!
Y lại thấy Đoàn Chính Thuần mặt càng tái đi, lúc ấy mới mỉm cười nói:
- Y đến Trung Nguyên, gặp được một cô nương xinh đẹp, thế là cứ lẽo đẽo đi theo bóng quần hồng, bao nhiêu hùng tâm tráng chí, một bụng văn chương cũng đều quên sạch. Cô gái kia đi về hướng đông, y cũng theo qua phía đông, cô gái kia đi về hướng tây, y cũng chạy theo hướng tây. Ai thấy thế cũng bảo đúng là một tên ăn bơ làm biếng, lêu lổng bê tha, thế không phải đáng tiếc lắm hay sao?
Bỗng nghe khúc khích, ai đó bật lên một tiếng cười, giọng đàn bà. Mọi người quay qua nhìn về phía đó thì thấy một hán tử trung niên mặt mũi ti tiện. Người đó chính là Nguyễn Tinh Trúc, mấy tháng qua bà ta kè kè ở bên cạnh Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần đi đến chùa Thiếu Lâm, bà ta cũng đi theo, biết qui củ chùa Thiếu Lâm không cho đàn bà con gái vào nên mặc giả làm đàn ông. Bà ta là mẹ của A Châu, trời sinh cũng có chút tài cải trang, lúc này ăn mặc nam trang, hình dung cử chỉ giống hệt, chẳng phải như bốn nàng cung Linh Thứu mặc giả người ta trông là biết ngay, có điều bà ta giọng nói yểu điệu, không được như A Châu giả đàn ông. Bà ta thấy mọi người lom lom nhìn mình vội vàng đổi giọng ồm ồm nói:
- Tiểu hoàng tử họ Đoàn gia học uyên nguyên, tướng môn hổ tử, quả là có chỗ hơn người!
Cái tiếng trăng hoa đi đến đâu lưu tình đến đấy của Đoàn Chính Thuần đã truyền khắp giang hồ, quần hào nghe bà ta ví von Đoàn Dự mê say Vương Ngữ Yên là “gia học uyên nguyên, tướng môn hổ tử” không khỏi đưa mắt nhìn nhau. Đoàn Chính Thuần cũng cười ha hả, nói với Cưu Ma Trí:
- Cái đứa con không ra gì …
Cưu Ma Trí vội chặn lại:
- Nào đâu có không ra gì, ra gì lắm chứ!
Đoàn Chính Thuần biết y mỉa mai mình phong lưu phóng đãng nhưng cũng không phật lòng, nói tiếp:
- Không biết y lúc này đang ở đâu, quốc sư nếu biết tung tích của nó, xin cho biết.
Cưu Ma Trí lắc đầu:
- Đoàn công tử không phá nổi cái lưới tình, đêm ngày vò võ tương tư. Khi tiểu tăng gặp y thì đã thân tàn ma dại, mặt mày tiều tụy, mình hạc xác ve, lúc này sống hay chết, thật khó mà nói lắm.
Đột nhiên một nhà sư thanh niên chạy ra, cung kính hành lễ với Đoàn Chính Thuần nói:
- Vương gia chẳng phải lo lắng, tam đệ của tiểu tăng tinh thần vui vẻ, thân thể an hảo lắm.
Đoàn Chính Thuần trả lại một lễ, trong bụng lạ lùng, nhìn cách phục sức của y rõ ràng là một nhà sư vai vế thấp kém trong chùa Thiếu Lâm, sao lại gọi Đoàn Dự là “tam đệ”, bèn hỏi:
- Tiểu sư phụ gần đây mới gặp đứa con của ta chăng?
Thanh niên tăng nhân đó chính là Hư Trúc, liền đáp:
- Đúng thế! Hôm đó cháu cùng tam đệ ở trên cung Linh Thứu uống một trận say sưa …
Đột nhiên có tiếng Đoàn Dự từ ngoài điện vọng vào:
- Gia gia! Hài nhi ở đây, lão nhân gia khoẻ mạnh chứ?
Giọng vừa dứt một người đã chạy vụt vào, sà vào lòng Đoàn Chính Thuần, chính là Đoàn Dự. Chàng nội công thâm hậu, tai rất thính, vừa đến cửa đã nghe cha mình đối đáp với Hư Trúc nên không nhịn nổi, lập thức thi triển Lăng Ba Vi Bộ chạy tới.
Cha con gặp nhau, vui mừng nói sao cho xiết. Đoàn Chính Thuần thấy con tuy có nhuốm chút phong sương nhưng thần thái sảng lãng, không phải như Cưu Ma Trí nói là “mặt mày tiều tụy, mình hạc xác ve”. Đoàn Dự quay lại Hư Trúc nói:
- Nhị ca lại trở về làm hòa thượng rồi sao?
Hư Trúc đã quì trước Phật tượng cả nửa ngày thành tâm sám hối về những sai quấy của mình, thế nhưng vừa gặp lại Đoàn Dự, lập tức lại nghĩ ngay đến “người trong mộng”, tự nhiên mặt đỏ tía tai, thần tình cực kỳ bẽn lẽn, nhưng nào có dám mở mồm hỏi dò. Cưu Ma Trí nghĩ thầm chắc lúc này Vương Ngữ Yên đang ở đâu đây, nếu không thì dù chùa Thiếu Lâm có muôn vàn chuyện ghê gớm cũng không thể nào dẫn dụ được anh chàng “si tình công tử” Đoàn Dự đến núi Thiếu Thất, mà Vương Ngữ Yên đối với biểu ca một mối thâm tình, không thể nào chia tay với Mộ Dung Phục được, lập tức đề khí lớn tiếng nói:
- Mộ Dung công tử, nếu đã lên đến núi Thiếu Thất, sao không vào chùa lễ Phật?
Tiếng tăm của Cô Tô Mộ Dung nổi như cồn, quần hùng ai nấy ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Thì ra Mộ Dung công tử đất Cô Tô đã đến đây. Chắc là đã cùng với gã phiên tăng này ước hẹn trước, cùng rủ nhau đến làm khó chùa Thiếu Lâm chăng?”.
Thế nhưng ngoài chùa không nghe tăm hơi gì, một hồi sau mới từ triền núi xa xa vọng lại: “Mộ Dung công tử … đến núi Thiếu Thất … vào chùa lễ Phật?”. Cưu Ma Trí nghĩ thầm: “Phen này ta đoán sai rồi, thì ra Mộ Dung Phục chưa đến núi Thiếu Thất, nếu không nghe thấy tiếng của ta lẽ nào lại không trả lời”.
Nghĩ thế y bèn ngửa cổ lên cười ha hả, toan nói mấy câu lấp liếm, bỗng nghe bên ngoài cửa có tiếng người lạnh tanh nói:
- Mộ Dung công tử còn đang ác đấu với Đinh lão quái, đợi giết được lão quái rồi, sẽ đến chùa Thiếu Lâm đảnh lễ Như Lai.
Cha con Đoàn Chính Thuần, Đoàn Dự nghe thấy thế mặt liền biến sắc, giọng nói đó chính là của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Vừa tới đó, Đoàn Diên Khánh mặc áo bào xanh, tay chống thiết trượng đã tiến vào điện, đằng sau y là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương, Hung Thần Ác Sát Nam Hải Ngạc Thần và Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Tứ đại ác nhân cùng đến một lượt.
Huyền Từ phương trượng đối với khách không kể thiện hay ác, ai ai cũng dùng lễ tiếp đãi. Chùa Thiếu Lâm tuy có qui củ không tiếp khách đàn bà nhưng Huyền Từ phương trượng thấy Diệp Nhị Nương dẫu hơi ngạc nhiên nhưng cũng không nói gì đến. Quần hùng đều nghĩ: “Hôm nay kẻ địch đông như thế này, so sánh nặng nhẹ, qui củ không tiếp nữ khách chỉ là chuyện nhỏ, chẳng nên gây thêm phiền toái làm gì”.
Nam Hải Ngạc Thần vừa trông thấy Đoàn Dự mặt đã đỏ lên, quay mình định chạy. Đoàn Dự cười nói:
- Này học trò ngoan, hồi này khỏe chứ?
Nam Hải Ngạc Thần nghe thấy chàng gọi mình là “học trò ngoan” biết là chạy không xong, mặt hầm hầm nói:
- Con mẹ nó gã sư phụ thối tha kia, sao ngươi chưa chết à?
Đa số quần hùng trong điện không rõ nội tình, thấy gã này thần thái hung ác, vậy mà người ôn văn nho nhã như Đoàn Dự lại gọi y là học trò, quả đã là lạ, thế nhưng y lại mở miệng gọi Đoàn Dự là thầy, ngôn ngữ cực kỳ vô lễ lại càng lạ hơn. Diệp Nhị Nương mỉm cười nói:
- Đinh Xuân Thu đại hiển thần thông, đánh cho Mộ Dung công tử không còn cách gì chống đỡ. Mọi người có muốn đi xem trò vui không?
Đoàn Dự kêu lên:
- Chao ôi!
Chàng là người đầu tiên chạy ra khỏi cửa.
Hôm đó Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác và Vương Ngữ Yên sáu người rời Phiêu Miểu Phong. Cả bọn thấy mình vô cớ xen vào việc tranh chấp bên trong cung Linh Thứu đã xôi hỏng bỏng không mà lại chẳng vẻ vang gì, ai nấy đều cụt hứng. Riêng có Vương Ngữ Yên nói năng ríu rít, được ở bên cạnh biểu ca là sung sướng nhất trần đời rồi.
Sáu người theo hướng đông quay về Trung Nguyên. Hôm đó xế trưa đi qua một khu rừng rậm tối mò mò, Phong Ba Ác đột nhiên kêu lên:
- Có mùi máu tanh!
Y rút phắt đơn đao, theo mùi chạy tới nghĩ thầm: “Có mùi máu tức là có đánh nhau”. Càng chạy mùi máu tanh càng nồng, thấy trên mặt đất nằm la liệt đến mấy chục người, binh khí rơi vãi, máu chưa khô, đủ biết người chết chưa lâu, thế nhưng trận đánh đã xong rồi. Phong Ba Ác dậm chân nói:
- Tiếc quá! Đến chậm một bước.
Bọn Mộ Dung Phục cũng chạy đến nơi, thấy những người chết áo quần lam lũ, lưng đeo túi vải toàn là người của Cái Bang. Công Dã Can nói:
- Có người là đệ tử bốn túi, có người năm túi, không biết trúng phải độc thủ của ai?
Đặng Bách Xuyên nói:
- Thôi chúng mình đem những xác chết này chôn cất đi thôi.
Công Dã Can đáp:
- Đúng thế! Công tử gia, Vương cô nương, hai người sang bên kia ngồi nghỉ một chút. Bốn người chúng tôi lo liệu được rồi.
Y cầm một cây thiết côn dưới đất lên, bắt đầu đào đất. Đột nhiên trong đám người chết có một tiếng rên phát ra. Vương Ngữ Yên sợ quá, vội nắm chặt lấy tay Mộ Dung Phục. Phong Ba Ác liền xông ra hỏi lớn:
- Này lão huynh, lão huynh chưa chết hẳn phải không?
Từ trong đống xác chết có một người từ từ ngồi dậy, nói:
- Chưa chết hẳn, có điều … có điều cũng chẳng … cũng chẳng được bao lâu!
Người đó là một gã ăn mày già chừng trên dưới năm mươi, đầu tóc hoa râm, trên mặt trên ngực đầy vết máu, trông thật ghê rợn. Phong Ba Ác vội lấy trong túi ra một viên thuốc, nhét vào mồm y.
Người ăn mày liền nuốt viên thuốc nói:
- Chẳng … chẳng ăn thua gì đâu! Bụng ta trúng hai dao, không … không sống nổi.
Phong Ba Ác nói:
- Thế ai làm hại các ông thế?
Người ăn mày lắc đầu nói:
- Nói ra thật xấu hổ, đó là … là người trong Cái Bang chúng tôi tranh chấp, tàn sát … lẫn nhau.
Phong Ba Ác, Bao Bất Đồng cả bọn cùng kêu lên kinh ngạc. Lão ăn mày lại tiếp:
- Chuyện này … chuyện này đáng lý không nên nói cho người ngoài nghe, có điều … có điều đã làm ầm ỹ lên rồi, cũng chẳng còn dấu ai được nữa. Không hiểu tôn tính đại danh các vị, đa tạ … đa tạ đã cứu viện, ôi, đệ tử Cái Bang tàn sát lẫn nhau, xem ra không bằng võ lâm đồng đạo không quen không biết. Mới rồi … mới rồi nghe các vị định chôn cất các xác chết chúng tôi, bụng dạ nhân hiệp, lão này cực kỳ cảm kích…
Bao Bất Đồng nói:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ngươi đã chết đâu, đâu đã là xác chết, chúng ta cũng chưa chôn ngươi, chẳng việc gì mà phải cảm kích.
Người ăn mày nói:
- Người trong Cái Bang tự giết lẫn nhau, đến … đến xác cũng không chôn, thế … thế thì còn nói anh em gì nữa? Nói thật đến cầm thú cũng chưa bằng …
Bao Bất Đồng toan cãi lại là cầm thú đâu có biết chôn cất lẫn nhau, thế nhưng Mộ Dung Phục đã đưa mắt lườm y một cái, y liền ngưng lại không dám nói nữa.
Lão ăn mày nói tiếp:
- Lão nhi xin các vị đem tin đến … đến Ngô trưởng lão của tệ bang, nói rằng tân bang chủ Trang Tụ Hiền tiểu tử đó chỉ là cái bung xung, mọi … mọi việc đều do tên gian tặc … Toàn Quan Thanh giựt giây. Bọn tôi không phục gã họ Trang làm bang chủ, Toàn Quan Thanh phái … phái người đến giết … giết chúng tôi. Bọn chúng lại định đến thanh toán Ngô trưởng lão, vậy xin lão nhân gia … hết sức cẩn thận.
Mộ Dung Phục gật đầu, nghĩ thầm: “Thì ra là thế”. Y bèn nói:
- Lão huynh cứ yên tâm, tin tức đó bọn ta sẽ tìm cách đưa tới nơi, có điều Ngô trưởng lão của quí bang hiện nay đang ở nơi nào?
Lão ăn mày mắt lờ đờ nhìn về phía xa xa, chậm rãi lắc đầu nói:
- Ta … ta cũng không biết nữa.
Mộ Dung Phục nói:
- Cũng không sao. Chúng tôi sẽ đem cái tin đó loan truyền rộng rãi trên giang hồ, thể nào cũng đến tai Ngô trưởng lão, không chừng Toàn Quan Thanh nghe được rồi lại không dám hạ độc thủ với Ngô trưởng lão nữa đâu.
Lão ăn mày gật đầu liên tiếp nói:
- Đúng thế! Đúng thế! Đa tạ.
Mộ Dung Phục hỏi lại:
- Tân bang chủ quí bang Trang Tụ Hiền lai lịch ra sao? Chúng tôi cô lậu quả văn, hôm nay mới nghe đến tên đó lần đầu tiên.
Lão ăn mày hậm hực nói:
- Tên đầu sắt đó …
Bọn Mộ Dung Phục đều giật mình, cùng hỏi dồn:
- Y là quái nhân đầu sắt đó sao?
Lão ăn mày đáp:
- Ta vừa mới ở Tây Hạ trở về, cũng chưa gặp tiểu tử đó bao giờ, chỉ nghe anh em trong bang kể lại, tên tiểu tử đó vốn … vốn có đội một cái lồng sắt, sau này Toàn Quan Thanh tìm cách gỡ ra cho y, khuôn mặt … ôi, còn ghê hơn cả quỉ quái. Chuyện đó cũng không đáng nói làm gì. Tiểu tử đó võ công ghê gớm lắm, mấy tháng trước đại hội Cái Bang ở Quân Sơn, tất cả suy tuyển bang chủ, tranh chấp mãi không xong, sau đành phải lấy võ công mà phân cao thấp, tên đầu sắt đó đánh chết mười một cao thủ trong bang, nên … nên được làm … làm bang chủ nhưng nhiều anh em không phục, tên gian tặc Toàn Quan Thanh … tên gian tặc Toàn Quan Thanh …
Y càng nói càng nhỏ dần, dường như sắp tắt hơi. Đặng Bách Xuyên nói:
- Lão huynh, để cho huynh đệ xem vết thương của lão huynh, mình tìm cách trị thương rồi tính sau.
Người ăn mày đáp:
- Bụng vỡ rồi, ruột cũng lòi cả ra … đa tạ, có điều …
Y nói rồi đưa tay vào bọc dường như muốn lấy ra vật gì, nhưng lực bất tòng tâm đành nói:
- Phiền … phiền ông …
Công Dã Can đoán được ý của y bèn hỏi:
- Phiền ta lấy ra vật gì, phải không?
Lão ăn mày gật đầu, Công Dã Can lập tức đưa tay vào bọc y lấy hết ra, để trên tay, nào là hỏa đao, bùi nhùi, ám khí, thuốc men, lương khô, bạc vụn các loại, đủ thứ, tất cả đều dính đầy máu me.
Lão ăn mày nói:
- Ta … ta không xong rồi. Cái trương … trương bảng văn này, hết sức quan trọng, khẩn thỉnh ân công nghĩ đến tình nghĩa giang hồ, giao cho … giao cho bất cứ một vị trưởng lão nào trong Cái Bang cũng được … nhưng đừng giao cho gã đầu sắt và … và tên gian tặc Toàn Quan Thanh. Tiểu lão nhi có ở dưới cửu tuyền, cũng còn hết sức cảm kích.
Y vừa nói vừa giơ tay run run cầm lấy trên tay Công Dã Can một xấp giấy màu vàng. Mộ Dung Phục nói:
- Các hạ cứ yên tâm, nếu vết thương của ông quả không khỏi được, cái tờ giấy gì đây, bọn ta đảm bảo sẽ giao lại cho trưởng lão quí bang.
Vừa nói vừa cầm lấy tờ giấy màu vàng. Lão ăn mày thều thào:
- Tại hạ họ Dịch, tên gọi Dịch Đại Bưu. Xin phiền … xin phiền túc hạ phao lên rằng, ta từ nước Tây Hạ trở về, đây là … đây là bảng văn kén rể của quốc vương nước Tây Hạ. Việc này … việc này quan trọng ghê gớm, có liên can đến khí vận an nguy nhà Đại Tống. Thế nhưng vừa về đến Trung Nguyên chúng tôi đã gặp gian mưu, chỉ mong gặp được Ngô trưởng lão để cho hay … cho ông ta hay, ngờ đâu … ngờ đâu không còn gặp ông ta được nữa. Chỉ mong túc hạ thương đến muôn vạn sinh linh … sinh linh … sinh linh …
Y lắp bắp nói luôn ba tiếng “sinh linh” nhưng vẫn không sao nói thêm được. Y càng gấp gáp, lại càng không nói nên lời, đột nhiên hộc ra một ngụm máu, mắt trợn ngược, bỗng thấy Mộ Dung Phục hình dung tuấn nhã, chợt nghĩ ra một người liền hỏi:
- Các hạ là ai! Có phải Cô Tô … Cô Tô …
Mộ Dung Phục đáp:
- Không sai! Tại hạ là Cô Tô Mộ Dung Phục.
Lão già ăn mày kinh hoảng kêu lên:
- Ngươi … ngươi là kẻ đại cừu của bản bang …
Y thò tay chộp lấy tờ giấy vàng trong tay Mộ Dung Phục, cố sức giựt về. Mộ Dung Phục buông tay cho y giựt lấy, nghĩ thầm: “Cái Bang một mực nghi cho ta làm hại Phó bang chủ Mã Đại Nguyên, gần đây tuy lời đồn đã bớt nhưng người này vẫn coi ta là đại cừu nhân. Y sắp chết rồi, chẳng cần tranh cãi với y làm gì nữa”.
Chỉ thấy lão ăn mày cố sức toan xé tờ giấy, đột nhiên hai chân duỗi một cái, máu chảy ọc ra rồi chết. Phong Ba Ác gỡ tay y, thấy tờ giấy đầy những chữ loằng ngoằng viết bằng son, dưới cùng đóng một dấu đỏ lớn. Công Dã Can khá thông thạo nhiều thứ tiếng, coi qua từ đầu tới cuối một lượt rồi nói:
- Quả nhiên là bảng văn chiêu phò mã của quốc vương Tây Hạ. Trong thư viết rằng:
Văn Nghi công chúa nước Tây Hạ đã đến tuổi cập kê, quốc vương muốn trưng tuyển một vị nam tử chưa vợ văn võ toàn tài, tuấn nhã anh hùng để làm phò mã, định vào ngày Trung Thu tháng tám này sẽ tuyển chọn. Bất luận nhân sĩ nước nào, tự tin rằng mình là loại nhân tài hạng nhất thì trước ngày đó cứ viết thư xin yết kiến, quốc vương sẽ cho gặp mặt. Nếu dẫu không được trúng tuyển phò mã thì cũng theo tài mà lục dụng, phong cho quan tước, còn dưới một mức thì thưởng vàng bạc …
Công Dã Can chưa đọc hết, Phong Ba Ác đđã cười sằng sặc nói:
- Cái vị nhân huynh Cái Bang này quả cũng tức cười, y lật đật mang bản văn này từ Tây Hạ chạy về, không lẽ muốn một vị trưởng lão nào trong bang đi ứng tuyển để làm phò mã Tây Hạ hay sao?
Bao Bất Đồng đáp:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Tứ đệ có chỗ chưa tường, các trưởng lão trong Cái Bang dĩ nhiên vừa già vừa xấu, thế nhưng đệ tử trẻ tuổi trong bang, thiếu gì kẻ văn võ toàn tài, thông minh anh tuấn. Nếu như có một đệ tử Cái Bang được làm phò mã Tây Hạ, Cái Bang chẳng cũng lên như diều hay chăng?
Đặng Bách Xuyên cau mày nói:
- Ta thường nghe hảo hán trong Cái Bang không màng công danh phú quí, sao cái gã Dịch Đại Bưu này lại để cho lửa tham hun đốt cõi lòng?
Công Dã Can đáp:
- Đại ca, gã này nói: “Việc này quan trọng ghê gớm, có liên can đến khí vận an nguy nhà Đại Tống”. Y lại còn nói đến sinh linh gì gì đó, chưa chắc chỉ cầu công danh phú quí cho Cái Bang không thôi đâu!
Bao Bất Đồng lắc đầu quầy quậy:
- Sai bét rồi! Không phải vậy!
Công Dã Can hỏi lại:
- Tam đệ lại có cao kiến gì khác?
Bao Bất Đồng đáp:
- Nhị ca hỏi tiểu đệ “lại có cao kiến gì khác”, chữ “lại” đó nghĩa là mỗ đã từng biểu lộ cao kiến rồi. Thế nhưng mỗ đã có cao kiến gì đâu, đủ biết nhị ca không tin rằng tiểu đệ có cao kiến. Nhị ca hỏi mỗ “lại có cao kiến gì khác” chẳng qua hàm ý muốn bảo rằng: “Bao lão tam lại định nói nhăng nói cuội gì nữa đây?”, có phải không nào?
Phong Ba Ác tuy thích đánh nhau nhưng anh em trong nhà thì lại không gây hấn, Bao Bất Đồng thích tranh biện, chẳng cần biết thân sơ tôn ti, một câu không hợp là phải cãi cho bằng được mới xong. Công Dã Can biết rõ tính nết người em kết nghĩa, chỉ mỉm cười nói:
- Tam đệ trước nay nói ra rất nhiều cao kiến, ta bảo “lại” quả thật là mong muốn ngươi nói ra cao kiến nữa.
Bao Bất Đồng lại lắc đầu:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Mỗ thấy nhị ca khi nói nhếch mép mỉm cười, ý tứ xem ra không thành thực …
Y còn đang nói, Đặng Bách Xuyên đã chặn ngang nói:
- Tam đệ, gã Dịch Đại Bưu này mang bức bảng văn kén phò mã từ nước Tây Hạ về, trịnh trọng ủy thác như thế, nhờ bọn ta mang đến cho trưởng lão Cái Bang, theo ý ngươi, y có dụng ý gì?
Bao Bất Đồng đáp:
- Cái đó tiểu đệ không phải Dịch Đại Bưu, làm sao biết được y có dụng ý gì?
Mộ Dung Phục đưa mắt nhìn Công Dã Can có ý dò hỏi xem y ý kiến ra sao. Công Dã Can mỉm cười đáp:
- Theo như ta tưởng, thì hoàn toàn khác hẳn tam đệ.
Y biết rõ dù mình nói thế nào chăng nữa, Bao Bất Đồng ắt sẽ nói ngược lại, chi bằng chặn trước là hơn. Quả nhiên Bao Bất Đồng liền kêu lên:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Lần này nhị ca đoán trật lất, tiểu đệ nghĩ hoàn toàn y chang nhị ca, không có gì khác cả.
Công Dã Can mỉm cười nói:
- Thế thì hay biết mấy!
Mộ Dung Phục nói:
- Nhị ca, theo ý anh thì là thế nào?
Công Dã Can đáp:
- Hiện thời Đại Liêu, Đại Tống, Thổ Phồn, Tây Hạ, Đại Lý năm nước sánh vai, trừ Đại Lý ở nơi hẻo lánh nam cương, không tranh giành với ai, còn lại bốn nước đều có bụng dòm ngó, thôn tính thiên hạ …
Bao Bất Đồng nói:
- Cái này nhị ca nói không phải. Nước Đại Yên ta tuy không có đất đai, nhưng công tử gia thời thời khắc khắc lúc nào cũng có chí khôi phục, biết đâu Đại Yên ta sau này sẽ chẳng có lúc trùng chấn cơ nghiệp tổ tông, trung hưng phục quốc?
Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Phong Ba Ác tất cả cùng đứng lên, thần sắc nghiêm trang trịnh trọng, cùng cất tiếng:
- Cái chí phục quốc, không lúc nào quên!
Năm người, kẻ rút yêu đao, người giơ trường kiếm, cầm binh khí để ngang trên ngực. Tổ tiên Mộ Dung Phục là họ Mộ Dung vốn thuộc bộ tộc Tiên Ti. Năm xưa khi có loạn Ngũ Hồ, họ Mộ Dung Tiên Ti xâm nhập Trung Nguyên, uy phong rất lớn, đã từng lập nên nhà Tiền Yên, Hậu Yên, Nam Yên, Tây Yên nhiều triều đại. Về sau họ Mộ Dung bị diệt vào thời Bắc Ngụy, tán loạn khắp nơi, nhưng ông cha truyền cho con cháu, đời này sang đời khác, lúc nào trong đầu cũng toan tính trung hưng phục quốc. Trải qua đời Tùy đời Đường, mỗi ngày họ Mộ Dung một suy vi, tuy cái hùng tâm tráng chí “Trùng Kiến Đại Yên” vẫn còn, viễn ảnh thừa long xem ra ngày càng mờ mịt.
Đến cuối đời Ngũ Đại, nhà Mộ Dung nảy sinh một vị võ học kỳ tài là Mộ Dung Long Thành, sáng tạo ra môn võ công cao siêu Đẩu Chuyển Tinh Di trên đời không ai địch nổi, danh dương thiên hạ. Ông ta không quên di huấn của tổ tông, tập hợp hảo hán có ý đồ phục quốc, thế nhưng thiên hạ chia lâu rồi lại hợp, Triệu Khuông Dận lập nên nhà Đại Tống, bốn bể thanh bình, lòng người quay về một mối, Mộ Dung Long Thành võ công cao cường nhưng không có cách nào xây dựng cơ sở, uất hận mà chết.
Mấy đời sau, hùng tâm và võ công của Mộ Dung Long Thành lại truyền đến Mộ Dung Phục. Đại Yên đồ mưu phục quốc, đối với Tống triều là chuyện bất đạo, làm loạn phản nghịch, tuy họ Mộ Dung lén lút qui tụ đồng đảng, gom tiền tài, tích lương thảo nhưng không dám để lộ ra ngoài chút nào. Trong võ lâm khi nói đến Cô Tô Mộ Dung chỉ biết họ võ công cực cao, hành tung ngụy bí, chẳng khác gì yêu tà. Nhà Mộ Dung trong lòng mang chí lớn, khác hẳn với hành vi của giới giang hồ, dưới mắt kẻ tầm thường coi không hợp nhãn, lại thêm môn “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” lưu truyền, dần dần bao nhiêu tiếng ác đều đổ lên đầu họ.
Khi đó giữa nơi đồng không mông quạnh, không người nào khác, Bao Bất Đồng đề cập đến việc trung hưng Đại Yên, mọi người không ai nhịn nổi, rút kiếm đứng lên, hiên ngang khẳng khái nói toạc ý hướng của mình ra.
Vương Ngữ Yên chậm rãi quay đầu khoan thai đi ra ngoài, cách xa mọi người. Mẹ nàng xưa nay vốn phản đối âm mưu của nhà Mộ Dung tác loạn tạo phản, toan bề xưng vương xưng đế, cho rằng cái si tâm vọng tưởng của họ mấy trăm năm qua, lấy lại nước thì chẳng thấy đâu, cái họa cả họ bị rơi đầu thì ngay trước mắt. Thành thử trước nay mẹ nàng không bao giờ cho Mộ Dung Phục đặt chân vào nhà, một mình ẩn cư nơi hồ lăng hẻo lánh, không lai vãng qua lại gì với nhà Mộ Dung.
Công Dã Can nhìn theo sau lưng Vương Ngữ Yên nói:
- Liêu Tống hai nước chinh chiến liên miên, Đại Liêu tuy thắng thế thật nhưng muốn diệt nước Tống thì không sao làm nổi. Tây Hạ, Thổ Phồn hùng cứ biên thùy phía tây, nước nào cũng có hùng binh mấy chục vạn, bất luận nếu đem binh trợ Liêu thì Tống triều ắt sẽ lâm nguy, còn nếu giúp Tống thì nước Liêu có chiều vong quốc.
Phong Ba Ác lớn tiếng nói:
- Nhị ca nói có lý lắm. Cái Bang đối với Tống triều vốn dĩ một dạ trung thành, gã Dịch Đại Bưu đem bảng văn về, chắc mong mỏi Đại Tống có một thanh niên anh hùng nào sang ứng tuyển phò mã Tây Hạ. Nếu như Tống Hạ hai nước liên minh thì ắt sẽ thành thiên hạ vô địch.
Công Dã Can gật đầu nói:
- Quả là thiên hạ vô địch nhưng không phải chỉ có thế mà thôi đâu. Bất quá Đại Tống tài nguyên phong túc, Tây Hạ binh mã tinh cường, một khi hai nước liên binh, Đại Liêu, Thổ Phồn không địch nổi đã đành, cái nước Đại Lý nhỏ bé kia hẳn là không đáng nói tới nữa. Cứ như ta suy đoán, Tống Hạ liên binh rồi, bước thứ nhất là thôn tính Đại Lý, bước thứ hai mới tấn công nước Liêu.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Cái tính toán của Dịch Đại Bưu e rằng thật là như thế, thế nhưng Tống Hạ liên hôn, đâu có dễ dàng. Liêu quốc, Thổ Phồn, Đại Lý nghe tin, thể nào chẳng tìm cách phá hoại.
Công Dã Can nói:
- Không phải chỉ tìm cách phá hoại mà nước nào chẳng muốn lấy được cô công chúa đó.
Đặng Bách Xuyên nói:
- Không biết cô công chúa Tây Hạ kia xấu hay đẹp, tính tình có hòa nhã, hay lại ngang ngược dữ dằn.
Bao Bất Đồng cười ha hả nói:
- Đại ca việc gì mà phải lo chuyện đó, không lẽ đại ca muốn sang Tây Hạ cầu hôn, định làm phò mã hay sao?
Đặng Bách Xuyên cười:
- Nếu như Đặng đại ca nhà ngươi mà trẻ lại hai chục tuổi, võ công cao gấp mười, đẹp trai gấp trăm, thì ta lập tức chạy đến Tây Hạ ngay.
Y nói xong liền nghiêm mặt:
- Nước Đại Yên ta muốn khôi phục, đồ mưu đã mấy trăm năm, nhưng vẫn như tìm hoa trong gương, mò trăng đáy nước, khó mà thành công. Nói cho cùng, chẳng qua cũng bởi mình không có một nơi nào có thế lực để nhờ cậy. Nếu như nước Tây Hạ là chỗ thân gia với nhà Mộ Dung thì một khi ta ở Trung Nguyên giương ngọn nghĩa kỳ, viện binh Tây Hạ liền gửi qua ngay, liệu đại sự có thành hay không?
Công Dã Can nói:
- Đúng thế! Ngày trước thời Xuân Thu, hai nước Tần Tấn đời đời lấy lẫn nhau, Tấn công tử Trùng Nhĩ mất nước, phải lưu vong bên ngoài, Tần Mục Công phát binh giúp Tấn, sau thành nghiệp bá cho Tấn Văn Công.
Bao Bất Đồng vốn dĩ chuyện gì cũng phải cãi chầy cãi cối một phen mới xong, thế nhưng bây giời nghe Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can hai người nói chuyện, lại cứ liên tiếp gật gù, nói:
- Không sai! Nếu như việc này giúp cho Đại Yên chúng ta trung hưng phục quốc, thật không kể gì công chúa Tây Hạ xấu hay đẹp, tốt hay xấu, miễn là cô nàng chịu lấy Bao lão tam, thì dù có là con lợn sề, Bao lão tam này cũng nhắm mắt lấy bừa cho xong.
Mọi người ai nấy cười sằng sặc, đồng thời đưa mắt nhìn Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục hiểu rõ ràng, bốn người muốn mình đi qua Tây Hạ, ứng tuyển phò mã. Nói đến tuổi tác tướng mạo, văn tài võ công, thật quả đương thế chưa chắc có thanh niên nào hơn được mình. Nếu mình đi qua Tây Hạ cầu thân, mười phần cũng có hi vọng bảy tám. Thế nhưng nếu quốc vương Tây Hạ lại chọn theo gia thế môn đệ, tuy mình dòng dõi vương tôn qúi tộc Đại Yên, nhưng dẫu sao cũng đã suy bại từ lâu, ở Đại Tống chỉ là một người áo vải, nếu như Đại Tống, Đại Lý, Đại Liêu, Thổ Phồn các nước đều gửi thân vương công hầu sang cầu hôn, mình chỉ là một chân bạch đinh không tước lộc, chẳng thể nào sánh với người ta được. Nghĩ đến chuyện đó, quay sang nhìn trương bảng văn.
Công Dã Can theo y đã lâu, có thể đoán được tâm ý Mộ Dung Phục, bèn nói:
- Trên bảng văn nói rất rõ ràng, kẻ ứng tuyển không kể tước lộc môn đệ mà chỉ xem nhân phẩn tài năng. Khi thành phò mã rồi thì tước vị cũng đi theo, còn như nhân phẩm tài năng dẫu có thánh chỉ cũng không ban cho được. Công tử gia, cái hùng tâm của họ Mộ Dung mấy trăm năm qua, muốn … muốn vào tay công tử …
Y nói đến mấy câu cuối, tâm thần khích động, giọng thành run run. Bao Bất Đồng nói:
- Công tử gia nếu làm Tấn Văn Công thì bốn anh em ta cũng thành Hồ Mao, Hồ Yển, Giới Tử Thôi …
Y chợt nhớ ra Giới Tử Thôi sau này bị Tấn Văn Công phóng hỏa cho chết cháy, việc đó quả là bất tường, lập tức ngưng bặt. Mộ Dung Phục sắc mặt trắng bệch, ngón tay rung rung, y biết đây quả là một lương cơ nghìn năm khó gặp, xưa nay công chúa trưng hôn, đều do đại thần được vua sai đi làm mai mối, tuyển chọn trong đám đệ tử công thần thế gia, phong cho làm phò mã, chứ chẳng đời nào trương bảng bố cáo cho bàn dân thiên hạ, công khai kén rể bao giờ. Y không tự chủ nổi nhìn về phía sau lưng Vương Ngữ Yên, thấy nàng đứng dưới một tàn cây liễu, đưa tay cầm một cành liễu rủ xuống, mắt nhìn vào dòng sông, áo quần đơn bạc, trông thật tội nghiệp.
Mộ Dung Phục biết rằng biểu muội từ tấm bé đã nặng tình với mình, tuy rằng bà mợ với cha mẹ mình không hoà thuận, nhiều lần ngăn trở không cho hai người gặp nhau, thế nhưng nàng là một cô gái mảnh mai không biết võ công, vậy mà dám liều lĩnh ra đi, lưu lạc giang hồ để đi tìm mình, cái tình ý đó quả thực trên đời hiếm có.
Mộ Dung Phục bôn tẩu bốn phương, chỉ một lòng mong trung hưng phục quốc, đến cả võ công cũng chẳng mấy chuyên tâm, còn chuyện nhi nữ chi tình lại càng coi nhẹ. Thế nhưng biểu muội đối với mình một lòng quyến luyến như thế, lẽ nào lại không động tâm?
Nay bỗng nhiên muốn bỏ nàng mà đi kiếm một cô công chúa chưa từng gặp mặt để cầu hôn, tuy đó là chuyện ắt phải như thế nhưng cũng không khỏi thấy mình bất nhẫn.
Công Dã Can tằng hắng một cái nói:
- Công tử, từ xưa đến nay những người muốn thành đại sự không nề tiểu tiết, đại anh hùng đại hào kiệt đều phải qua được cái cửa “tình”.
Bao Bất Đồng cũng tiếp theo:
- Một khi Đại Yên khôi phục được rồi, công tử trở thành trung hưng chi chủ, tam cung lục viện thì có ai nói gì được? Tây Hạ công chúa là chính cung nương nương, còn vị Vương gia biểu cô nương kia, phong nàng làm tây cung nương nương là xong. Lúc đó công tử có thương mến, sủng ái nàng thì còn ai dám nói năng gì?
Y bình thời chỉ luôn luôn cà khịa với người khác, lúc này thương lượng đại sự, nói năng mạch lạc đâu ra đấy. Mộ Dung Phục gật đầu, nghĩ đến cha mình trước kia luôn luôn dặn dò, ngoài việc trung hưng Đại Yên trên đời không còn việc gì quan trọng nữa, nếu vì đại nghiệp thì dẫu có phải giết cha giết anh cũng không từ, con cái đệ tử cũng không tha, dù người chí thân hay bạn bè cũng tru sát, chuyện tình ái gái trai lại càng không coi vào đâu. Vương Ngữ Yên tuy đối với mình một mối thâm tình, nhưng mình chỉ coi nàng như cô em nhỏ, không có chỗ nào đặc biệt, dẫu rằng trong lòng vẫn đinh ninh sẽ lấy biểu muội làm vợ, nhưng bình thời chẳng mấy khi nghĩ đến chuyện này, vì y vẫn coi đó là chuyện ắt phải là như thế, chẳng cần nghĩ ngợi gần xa. Chỉ cần đại sự hoàn thành, đúng như Bao Bất Đồng nói, tương lai biểu muội làm phi làm tần mình sủng ái hơn một chút là xong.
Y hơi trầm ngâm một chút, bèn gạt Vương Ngữ Yên qua một bên nói:
- Các vị nói có lý lắm, đây quả là một dịp may để phục hưng Đại Yên, có điều đại trượng phu nói phải giữ lời, bảng văn này, mình phải đưa đến tận tay Cái Bang mới được.
Đặng Bách Xuyên đáp:
- Đúng thế! Không nói gì trong Cái Bang chẳng có mặt nào có thể sánh với công tử gia được, dẫu có kình địch thực sự, chúng mình cũng không nên tư tàng bảng văn, làm chuyện hèn hạ đáng khinh như thế.
Phong Ba Ác nói:
- Cái đó đương nhiên rồi. Đại ca, nhị ca bảo vệ công tử gia đi Tây Hạ cầu thân, tam ca và mỗ đem bảng văn này cho Cái Bang. Từ nay đến rằm tháng tám, thời gian còn dài, Cái Bang nếu muốn kiếm người thì cũng còn kịp, chẳng có thể nói mình hớt tay trên.
Mộ Dung Phục nói:
- Chúng ta hành sự phải cho quang minh lỗi lạc, cứ để ta tự tay đưa đến cho các trưởng lão Cái Bang, sau đó hãy đi Tây Hạ.
Đặng Bách Xuyên vỗ tay nói:
- Lời của công tử gia phải lắm. Mình nhất định không để ai có cơ dè bỉu sau lưng được.
Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác ba người đều gật đầu khen phải, sau đó cùng nhau chôn cất những người trong Cái Bang. Mộ Dung Phục vẫy Vương Ngữ Yên lại gần nói:
- Biểu muội, những đệ tử Cái Bang đây bị người ta giết, bên trong có liên quan đến một việc hệ trọng, ta phải đích thân đến tổng đà Cái Bang. Ta nghĩ nên đưa cô về Mạn Đà Sơn Trang trước.
Vương Ngữ Yên hoảng hốt, dãy nảy lên:
- Em … em không về nhà đâu, mẹ em thấy em thể nào cũng giết em mất.
Mộ Dung Phục cười nói:
- Mặc dù cô mẫu nóng tính nhưng chỉ có một mụn con, lẽ nào lại giết cô bao giờ? Cùng lắm mắng mỏ vài câu thôi.
Vương Ngữ Yên ấp úng:
- Không … không đâu! Tiểu muội không về đâu. Để em theo biểu huynh đi gặp Cái Bang.
Mộ Dung Phục đã quyết ý đi Tây Hạ cầu hôn, trong bụng không khỏi xốn xang, nghĩ thầm: “Thôi tạm thời cứ chiều theo ý nàng, để rồi tính sau”. Y bèn nói:
- Thế cũng được! Cô là con nhà khuê các, theo bọn ta luân lạc giang hồ, xem ra không ổn, tổng đà Cái Bang cô chẳng nên tới làm gì. Nếu cô không muốn quay về Mạn Đà Sơn Trang, chi bằng đến Yến Tử Ổ nhà ta ở tạm vậy, khi nào việc xong, ta sẽ về thăm cô, được chăng?
Vương Ngữ Yên mặt mày bẽn lẽn, mừng thầm trong bụng. Trong đời nàng chỉ có một nguyện vọng là được thành hôn với biểu ca, sống với nhau ở Yến Tử Ổ, bây giờ Mộ Dung Phục bảo nàng về đó, tuy chưa chính thức ngỏ lời nhưng sự tình cũng rõ như ban ngày rồi. Nàng chẳng nói bằng lòng hay không, chỉ e thẹn cúi đầu, mắt long lanh một niềm sung sướng lạ lùng.
Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can nhìn tới, thấy chuyện đánh lừa cô gái thiên chân lạn mạn này trong lòng vô cùng áy náy. Bỗng nghe bộp một tiếng, Phong Ba Ác tự tay vả mình một cái thật mạnh. Vương Ngữ Yên ngẩng đầu lên, lạ lùng hỏi:
- Phong tứ ca làm gì thế?
Phong Ba Ác đáp:
- Có … có con muỗi chích mồm ta.
Sau đó cả sáu người đi về hướng đông. Đi chưa được hai ngày đã thấy Đoàn Dự cười khúc khích từ sau chạy tới nói:
- Chao ôi! Quả là khéo thật, Mộ Dung công tử, Đặng đại gia, Công Dã nhị gia, Bao tam gia, Phong tứ gia, Vương cô nương, lại gặp các vị rồi. Tôi cũng đang về hướng đông, thôi mình đi chung một đoàn vậy, trên đường càng vui.
Bao Bất Đồng đối với chàng tuy ghét bỏ nhưng Đoàn Dự trước sau đã từng cứu mạng Phong Ba Ác, Vương Ngữ Yên nên không tiện xua đuổi, đi đường lạnh nhạt mỉa mai, có điều Đoàn Dự nghe mà bỏ ngoài tai, làm như không biết.
Đoàn người lại nhận được tin, Cái Bang và Thiếu Lâm hai phái tranh đoạt chức minh chủ võ lâm. Mộ Dung Phục và bọn Đặng Bách Xuyên mới bàn nhau, nếu như Cái Bang và Thiếu Lâm hai bên giao chiến đến thành lưỡng bại câu thương, nhà Mộ Dung sẽ thành ngư ông đắc lợi, đoạt được danh hiệu minh chủ võ lâm không chừng, dùng nó để hiệu lệnh hào kiệt giang hồ thì quả là một cơ duyên để khởi sự, không thể nào bỏ qua cho được, thành thử vội chuyển qua đi về hướng chùa Thiếu Lâm. Ngờ đâu vừa đến chân núi Thiếu Thất, lại đụng đầu Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu.
Mấy tháng qua, Đinh Xuân Thu đại khai môn hộ, thu nhận đệ tử rất đông, không kể hắc đạo lục lâm, bàng môn yêu tà, hễ ai chịu đến làm môn hạ, nghe hiệu lệnh của lão là nhận ngay không cự tuyệt, thành thử chỉ trong vài tháng, bọn thổ phỉ giang hồ Trung Nguyên tranh nhau đến đón ở bên đường đông như kiến cỏ.
Trong cuộc cờ của Tô Tinh Hà, Mộ Dung Phục bị Đinh Xuân Thu làm hại, kế đến đại chiến nơi khách điếm, may mà chạy thoát, lần này gặp lại, thấy đối phương đồ đảng ùn ùn kéo tới, trong bụng cũng e ngại thầm. Thế nhưng Phong Ba Ác lại là kẻ trời không sợ, đất không kiêng, mới hai ba câu đã xông ngay vào đánh với bọn môn đệ Tinh Tú Lão Quái. Đoàn Dự toan dẫn Vương Ngữ Yên tránh ra, nhưng cô nàng lo lắng cho biểu ca, không chịu rời xa. Đồ đệ của phái Tinh Tú tràn lên như nước triều, lập tức vây chặt bọn Mộ Dung Phục lại.
Đoàn Dự thi triển Lăng Ba Vi Bộ, tránh các môn nhân phái Tinh Tú bất chợt nghe tiếng của phụ thân vội chạy vào chùa tương kiến, đến khi nghe Diệp Nhị Nương nói rằng Mộ Dung Phục bị đánh không còn hơi sức đâu mà chống trả, nghĩ thầm: “Ta phải cõng Vương cô nương chạy ngay mới được”, lập tức chạy như bay xuống.
Bài liên quan