HỒI 10 - HOÁN SÀO LOAN PHƯỢNG "Tiếp Theo"
Thiên Long Bát Bộ (bản Mới)
Tưởng đâu khói phất phơ bay,
Ai ngờ kiếm khí tràn đầy không gian.
o O o
Sáng sớm hôm sau, Đoàn Chính Thuần từ biệt vợ con. Ông nghe Đoàn Dự nói Mộc Uyển Thanh đêm hôm qua đã theo mẹ là Tần Hồng Miên đi mất rồi, thẫn thờ một hồi, thở dài quay sang hỏi Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi hai người thì cũng đã lên đường đi về hướng bắc từ sớm.
Đoàn Chính Thuần dẫn theo Tam Công, Tứ Hộ Vệ vào cung từ biệt Bảo Định Đế, cùng Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư đi về phía Lục Lương châu. Đoàn Dự tiễn cha ra ngoài cửa đông mười dặm mới quay về.
Xế trưa hôm đó, Bảo Định Đế đang ở trong thiền phòng tụng kinh thì một tên thái giám tiến vào bẩm:
- Người trong phủ Hoàng thái đệ đến tâu rằng, Hoàng thái đệ thế tử đột nhiên bị ma làm, đã thỉnh Thái y đến chẩn bệnh.
Bảo Định Đế lo quá, từ khi Đoàn Dự bị trúng phải chất độc của thái tử Diên Khánh rồi chưa chắc đã trừ được một cách dễ dàng như thế, lập tức sai hai tên Thái y đến xem sao. Độ nửa giờ sau, hai tên thái giám quay về báo:
- Hoàng thái đệ thế tử bệnh không phải nhẹ, xem ra thần trí thác loạn.
Bảo Định Đế trong bụng hơi hoảng vội vàng xuất cung đích thân đến phủ Trấn Nam Vương thăm bệnh tình Đoàn Dự thế nào. Vừa đến bên ngoài ngọa thất của chàng đã nghe tiếng rầm rầm, loảng xoảng, lách cách liên hồi toàn là các loại khí mãnh bị đổ vỡ. Thị bộc ở bên ngoài thấy nhà vua liền quì xuống tiếp giá, ai nấy vẻ mặt kinh hoàng.
Bảo Định Đế đẩy cửa bước vào thấy Đoàn Dự đứng giữa phòng hoa chân múa tay, bao nhiêu bàn ghế cùng các loại trần thiết, đồ dùng văn phòng bị chàng vứt tung tóe. Hai tên thái y chạy đông né tây cực kỳ gấp rút. Bảo Định Đế gọi lớn:
- Dự nhi! Cháu sao thế?
Thần trí Đoàn Dự vẫn tỉnh táo như thường có điều chân khí trong người quá thịnh tưởng như muốn vỡ toang lồng ngực thành thử múa may quay cuồng đập phá đồ đạc một hồi thấy dần dần đỡ hơn. Chàng thấy Bảo Định Đế đi vào kêu lên:
- Bá phụ ơi! Cháu chết mất.
Hai tay chàng vung lên vòng vòng trên không. Đao Bạch Phượng đứng một bên, nước mắt ròng ròng nói:
- Đại ca, sáng sớm hôm nay Dự nhi còn khỏe mạnh bình thường tiễn cha nó ra khỏi thành, chẳng hiểu vì sao tự nhiên lại nổi cơn điên.
Bảo Định Đế an ủi:
- Đệ muội chẳng nên hoảng hốt, chắc là cháu nó trúng độc ở Vạn Kiếp Cốc chưa hết hẳn, để chữa cho xong.
Ông quay sang hỏi Đoàn Dự:
- Cháu thấy trong người thế nào?
Đoàn Dự liên tiếp dậm chân kêu lên:
- Điệt nhi toàn thân căng phồng lên thật là khó chịu.
Bảo Định Đế nhìn mặt và cánh tay chàng thấy không có gì khác lạ, chẳng sưng chút nào, câu nói đó đúng là thần trí bất thường khiến ông không khỏi nhíu mày.
Thì ra hôm qua nơi Vạn Kiếp Cốc Đoàn Dự bị năm cao thủ trút gần một nửa nội lực của họ vào người, lúc đó thì không thấy gì nhưng sau khi tiễn phụ thân xong, quay về nằm ngủ, trong giấc ngủ chân khí không được đạo dẫn nên chạy lung tung. Chàng nhỏm dậy, sử dụng Lăng Ba Vi Bộ mỗi lúc một nhanh chân khí liền bùng lên không còn cách nào chế ngự được, bèn kêu toáng lên khiến ai nấy đều nhốn nháo.
Một tên thái y nói:
- Khải tấu hoàng thượng, mạch của thế tử nhảy thật mạnh, dường như huyết khí quá vượng, theo ngu kiến của vi thần trích huyết cho ra bớt đi không biết có được hay không?
Bảo Định Đế nghĩ thầm phương pháp này may ra có thể áp dụng bèn gật đầu nói:
- Được, ngươi rút bớt máu ra cho y đi.
Tên thái y tuân lệnh, mở hộp thuốc ra lấy từ trong hộp gốm ra một con đỉa thật to. Đỉa dùng để hút máu ứ trong người bệnh nhân thật là tiện lợi, lại không đau. Y cầm tay Đoàn Dự để con đỉa đúng vào ngay chỗ huyết quản. Con đỉa đụng phải tay Đoàn Dự rồi liên tiếp ngọ ngoạy, dù ép cách nào cũng không chịu cắn vào tay Đoàn Dự. Gã thái y lạ lùng dùng sức đè nó xuống, một lát sau con đỉa dãy một cái chết mất rồi. Gã thái y thấy bị bẽ mặt trước mặt hoàng đế, mồ hôi trán tong tỏng nhỏ xuống vội vàng lấy một con đỉa khác nhưng rồi cũng chết.
Một tên thái y lo lắng tâu lên:
- Khải bẩm hoàng thượng, trong mình thế tử có chất kịch độc, đến ngay cả đỉa cũng phải chết.
Y có biết đâu Đoàn Dự đã nuốt con Mãng Cổ Chu Cáp vào bụng, dẫu loại rắn rết gì ngửi thấy mùi cũng phải chạy cho xa, dù loại rắn độc nhất cũng bị nhiếp phục, huống chi chỉ là một con đỉa nhỏ nhoi?
Bảo Định Đế trong bụng bồn chồn hỏi lại:
- Thế là loại độc dược gì, lợi hại cỡ nào?
Một tên thái y nói:
- Theo ngu kiến của thần, mạch của thế tử dường như quá nóng, ắt là trúng phải một độc vật cực nhiệt, còn tên ư? Đó là... đó là... vi thần ngu dốt...
Tên thái y kia cãi lại:
- Không phải, mạch của thế tử âm hư, độc tính cực hàn, phải dùng nhiệt độc để trung hòa.
Trong cơ thể Đoàn Dự có các luồng nội lực dương cương của Hoàng Mi tăng, Nam Hải Ngạc Thần và Chung Vạn Cừu lại cũng có các luồng âm nhu của Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc hai tên thái y mỗi bên một cách không ai nói được thực sự nó là cái gì.
Bảo Định Đế thấy hai người tranh luận, cả hai đều là danh y giỏi nhất nước Đại Lý, bây giờ quan điểm lại khác hẳn nhau đủ biết tà độc trong người cháu mình thật là quái đản liền đưa ba ngón trỏ, giữa và vô danh bàn tay phải để nhẹ nhàng lên huyệt Liệt Khuyết. Con cháu nhà họ Đoàn mạch không nhảy ở nơi cổ tay mà lại nhảy nơi huyệt Liệt Khuyết, y gia gọi là phản quan mạch.
Hai tên thái y thấy hoàng thượng vừa ra tay đã chứng tỏ một người tinh thông y đạo đều cực kỳ bội phục. Một gã nói:
- Trong y thư có chép là: người nào có phản quan mạch ở tay trái chủ về quí, có ở tay phải chủ về phú, nếu có cả hai bên thì đại phú đại quí. Bệ hạ, Trấn Nam Vương, thế tử ba vị đều có phản quan mạch.
Tên thái y kia liền cãi:
- Ba vị đại phú đại quí nào có phải chỉ vì có phản quan mạch mà nên đâu.
Người kia nói:
- Chứ còn gì nữa. Thế tử có mạch tượng đại phú đại quí đủ biết bệnh tuy hung hiểm thật nhưng cũng không sao cả.
Thế nhưng gã kia đâu có tin là thế nghĩ thầm: “Người đại phú đại quí tưởng không chết non à?”. Thế nhưng y làm sao dám nói ra câu đó.
Bảo Định Đế thấy mạch cháu mình vừa nhanh vừa mạnh, nếu cứ nhảy thế này thì tâm tạng làm sao chịu nổi? Ông hơi nhấn tay một chút định xem trong kinh mạch có gì lạ, đột nhiên nội lực trong người tuôn ra ào ào rồi biến mất không thấy gì nữa nên hoảng hồn vội vàng buông tay. Ông có biết đâu Đoàn Dự đã luyện được thủ Thái Âm Phế Kinh trong Bắc Minh thần công mà huyệt Liệt Khuyết là một trong những huyệt đạo của mạch này. Bảo Định Đế vừa vận nội kình lập tức nội lực đổ vào người Đoàn Dự.
Đoàn Dự rùng mình kêu lên:
- Chao ôi!
Người rung động mạnh run rẩy như cầy sấy. Bảo Định Đế lùi lại hai bước hỏi:
- Dự nhi, cháu đã gặp Đinh Xuân Thu của Tinh Tú Hải chăng?
Đoàn Dự lắp bắp:
- Đinh... Đinh Xuân Thu ư? Điệt nhi không biết y là ai cả.
Bảo Định Đế nói:
- Nghe nói y là một ông già trông rất tiên phong đạo cốt chẳng khác gì người trong tranh vẽ.
Đoàn Dự đáp:
- Cháu chưa từng gặp ông ta bao giờ.
Bảo Định Đế nói:
- Người này có một môn công phu tà môn, chuyên làm tiêu hủy công lực người khác, gọi là Hóa Công đại pháp, có thể phế trừ được võ công tu luyện cả đời của người khác trong một lúc, người trong võ lâm ai ai cũng ghét cay ghét đắng. Cháu chưa từng gặp y, sao... sao lại học được tà môn đó?
Đoàn Dự vội đáp:
- Điệt nhi chưa... chưa từng học bao giờ. Hóa Công đại pháp của Đinh Xuân Thu kia, đây là lần đầu tiên cháu được nghe bá phụ nói tới.
Bảo Định Đế xem chừng chàng không dám nói láo nhưng sao lại hóa tán nội lực của mình được, nghĩ một chút chợt hiểu ra: “Đúng rồi! Chắc là Đoàn Diên Khánh học mông công phu này, không biết làm sao mà đưa được tà môn đó vào người Đoàn Dự để cho nó ngẫu nhiên làm hại ta và Thuần đệ. Hà hà, người này đã dám xưng là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, quả thật danh bất hư truyền”.
Chỉ thấy Đoàn Dự hai tay cào cấu khắp người, quần áo rách bươm, trên da đầy những vết máu, cố hết sức gắng gượng mới khỏi kêu ầm lên nhưng miệng rên rỉ không ngừng. Đao Bạch Phượng luôn mồm dỗ con:
- Dự nhi, con cố chịu một chút, lát nữa sẽ bớt.
Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Cái nạn đề này chỉ còn cách lên chùa Thiên Long cầu giáo thôi”. Ông bèn nói:
- Dự nhi, ta đưa cháu đi bái kiến vài vị trưởng bối mong rằng họ có cách để trị tà độc cho cháu.
Đoàn Dự đáp lời:
- Vâng!
Đao Bạch Phượng vội vàng lấy quần áo cho con thay. Bảo Định Đế dẫn chàng ra khỏi phủ, mỗi người cưỡi một con ngựa đi về hướng núi mờ mờ xa.
Chùa Thiên Long nằm ở ngọn trung nhạc phía bắc dãy núi Điểm Thương ở bên ngoài thành Đại Lý, tên chính thức của ngôi chùa này là Sùng Thánh Tự nhưng người trong nước quen gọi là chùa Thiên Long. Chùa quay lưng vào núi cao, đối diện là sông Nhĩ_, hình thế thật là uy nghi. Chùa có ba ngọn tháp kiến tạo từ đầu đời Đường_, tháp lớn nhất cao hơn hai trăm thước_ gồm mười sáu tầng, đỉnh tháp đúc bằng sắt có ghi: “Đại Đường Trinh Quan Uất Trì Kính Đức tạo”_. Tương truyền chùa Thiên Long có năm báu vật mà ba ngọn tháp đứng đầu trong ngũ bảo_.
Họ Đoàn từ xưa tới nay các triều vua thường rời ngôi báu thì xuất gia làm sư, ai nấy đều tu tại chùa Thiên Long thành ra chùa Thiên Long cũng là gia miếu của hoàng thất được tôn vinh hơn cả trong các chùa chiền trong nước. Các vị hoàng đế sau khi xuất gia rồi, con cháu đến ngày sinh nhật thường lên chùa lễ bái, lần nào cũng có cúng dường trùng tu. Trong chùa có ba gác, bảy ngôi lầu, chín điện và một trăm gian qui mô thật là to lớn_, cấu trúc tinh kỳ so với danh sơn thắng địa ở Trung Nguyên như Ngũ Đài, Phổ Đà, Cửu Hoa, Nga Mi_ là nơi có chùa chiền lớn cũng không kém gì, có điều ở sâu tại nam cương nên tên tuổi không mấy vang dội.
Trên đường đi Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa được bá phụ chỉ điểm cách trấn nhiếp nội tức đang xung đột trong cơ thể cũng bớt khó chịu lẽo đẽo theo được Bảo Định Đế đến tận chùa Thiên Long. Chùa này là nơi nhà vua thường đến nên liền đi vào yết kiến phương trượng Bản Nhân đại sư.
Nếu tính vai vế trong họ ở ngoài đời thì Bản Nhân đại sư là chú của Bảo Định Đế, người xuất gia không giữ lễ quân thần, cũng không theo bối phận trong gia tộc nên hai bên dùng lễ phép ngang hàng mà xưng hô. Bảo Định Đế kể lại Đoàn Dự bị Diên Khánh thái tử bắt giữ ra sao, rồi trúng tà độc thế nào, nhiễm phải tà công hóa giải nội lực người khác kể lại một lượt.
Bản Nhân phương trượng trầm ngâm một hồi nói:
- Xin mời theo ta đến Mâu Ni Đường để gặp ba vị sư huynh sư đệ.
Bảo Định Đế đáp:
- Làm phiền đến sự thanh tu của các vị đại hòa thượng quả thực tội lỗi quá lắm.
Bản Nhân phương trượng đáp:
- Trấn Nam thế tử mai sau là tự quân của nước Đại Lý ta, trên vai gánh vác họa phúc của trăm họ. Kiến thức nội lực của bệ hạ còn hơn cả ta nữa nhưng đã phải tới đây hỏi thì chuyện ắt là khó khăn trăm phần. Một mình ta không thể quyết định phải cùng với ba vị sư huynh đệ thương lượng mới xong.
Hai chút tiểu đi trước dẫn đường đi sau là Bản Nhân phương trượng, kế đến là hai bác cháu Bảo Định Đế theo Thụy Hạc môn ở bên trái tiến vào, đi qua cửa Thiên Môn, gác Thanh Đô, mỏm Ký Ký, cung Đẩu Mẫu và cung Tam Nguyên rồi Đại Sĩ viện, Vũ Hoa viện, Bát Nhã đài đến một hành lang dài thì hai chú tiểu khom lưng đứng tránh sang hai bên không đi tiếp nữa. Ba người theo hành lang đó đi về hướng tây đến trước mấy căn nhà. Đoàn Dự đã từng đến chùa Thiên Long nhiều lần nhưng nơi đây chưa từng đến, thấy mấy gian nhà đó đều làm bằng những cây thông ghép thành, cửa nẻo cột kèo đều là cây cắt ra chưa lột vỏ thật là tự nhiên, khác hẳn những điện đài tường vàng mái ngói rực rỡ trên đường đi.
Bản Nhân phương trượng chắp hai tay nói:
- A Di Đà Phật, Bản Nhân có một việc nghi nan bất quyết đến làm phiền công quả của ba vị sư huynh đệ.
Trong nhà có tiếng người vọng ra:
- Mời phương trượng vào.
Bản Nhân giơ tay chầm chậm đẩy cửa, cánh cửa kẹt kẹt đủ biết bình thời ít ai dùng đến. Đoàn Dự đi theo phương trượng và bá phụ tiến vào, chàng nghe phương trượng nói đến “ba vị sư huynh sư đệ” nhưng trong nhà có đến bốn nhà sư mỗi người ngồi trên một cái bồ đoàn riêng. Ba nhà sư ngồi hướng ra ngoài, trong đó hai người mặt khô héo còn một người cao to hồng hào. Hòa thượng ở phía đông ngồi quay vào trong tường lặng yên không cử động.
Bảo Định Đế nhận ra hai nhà sư gầy gò vàng vọt kia pháp danh Bản Quan, Bản Tướng đều là sư huynh của phương trượng Bản Nhân, còn người cao to kia pháp danh Bản Tham là sư đệ của ông ta. Nhà vua chỉ biết trong Mâu Ni Đường chùa Thiên Long có ba cao tăng Quan, Tướng, Tham, đâu ngờ rằng lại còn một vị khác, lập tức khom lưng hành lễ, các nhà sư mỉm cười đáp lại. Nhà sư quay vào tường kia không biết đang nhập định hay đang lúc hành công khẩn yếu nên không thể phân tâm, trước sau không để ý gì tới. Bảo Định Đế biết rằng hai chữ Mâu Ni vốn nghĩa là tĩnh mịch, trầm mặc, nơi đây được đặt tên Mâu Ni Đường nên càng nói ít chừng nào tốt chừng nấy, nên vắn tắt kể lại chuyện Đoàn Dự bị trúng tà độc, sau cùng kết luận:
- Thỉnh cầu bốn vị đại đức chỉ điểm cho một con đường sáng.
Bản Quan trầm ngâm một hồi, quay sang Đoàn Dự ngắm nghía thật lâu rồi mới nói:
- Hai vị sư đệ ý kiến ra sao?
Bản Tham nói:
- Nếu bị tổn thất nội lực e rằng không luyện xong được Lục Mạch Thần Kiếm.
Bảo Định Đế nghe nói đến bốn chữ Lục Mạch Thần Kiếm trong lòng chấn động nghĩ thầm: “Khi còn bé ta từng nghe cha ta nói đến họ Đoàn chúng ta tổ tiên có một môn võ công gọi là Lục Mạch Thần Kiếm, uy lực vô cùng ghê gớm. Thế nhưng cha ta cũng nói rằng cái đó cũng chỉ truyền lại vậy thôi chưa nghe nói vị tổ tiên nào luyện được, ngay cả công phu đó thần kỳ bậc nào cũng không ai hay biết. Bản Tham đại sư nói như vậy hóa ra có môn kỳ công này thật”. Ông chợt nghĩ: “Câu nói của Bản Tham đại sư có ý là nếu như dùng nội lực giải độc cho Dự nhi thì sẽ làm trở ngại cho việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm. Thế nhưng Dự nhi trúng phải tà độc, tà công cực kỳ quái lạ nếu không nhờ vào sức của năm người thì làm sao mà trị được?”. Trong lòng ông tuy thấy băn khoăn nhưng cũng không lên tiếng từ chối.
Hòa thượng Bản Tướng không nói một lời, đứng dậy cúi đầu đôi lông mày rủ xuống lim dim đứng vào phương vị đông bắc. Bản Quan, Bản Tham cũng đứng ra hai vị trí. Bản Nhân phương trượng bước vào vị trí phía tây nói:
- Thiện tai! Thiện tai!
. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, bốn vị tổ công trưởng lão không ngại tổn hao công lực, giúp con khu trị tà độc, mau khấu đầu bái tạ.
Đoàn Dự nhìn thần sắc của bá phụ và cử chỉ của tứ tăng biết việc này không phải tầm thường, lập tức quì về phía bốn nhà sư khấu đầu từng người. Bốn nhà sư mỉm cười gật đầu. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, cháu ngồi xuống xếp bằng, trong lòng đừng suy nghĩ gì cả, toàn thân không sử dụng chút lực khí nào, nếu như đau nhói, ngứa ngáy, chỉ là hiện tượng bình thường chớ có kinh hãi, khiếp sợ.
Đoàn Dự vâng lời ngồi xuống.
Bản Quan hòa thượng đưa ngón tay cái bên phải ra, ngưng khí một chút rồi ấn vào sau huyệt Phong Phủ sau ót Đoàn Dự, lực đạo Nhất Dương Chỉ cuồn cuộn tuôn ra. Huyệt Phong Phủ nằm cách chân tóc chừng một tấc, thuộc về Đốc Mạch. Kế đó Bản Tướng hòa thượng cũng điểm huyệt Tử Cung thuộc về Nhâm Mạch, Bản Tham thì điểm huyệt Đại Hoành thuộc Âm Duy Mạch còn Bản Nhân phương trượng điểm vào huyệt U Môn thuộc Xung Mạch và huyệt Chương Môn thuộc Đới Mạch, Bảo Định Đế điểm vào huyệt Tinh Minh trên Âm Kiều Mạch. Kỳ kinh bát mạch tổng cộng tám đường kinh mạch, năm người để lại Dương Duy, Dương Kiều hai mạch không điểm. Cả năm người đều sử dụng công phu Nhất Dương Chỉ, dùng lực thuần dương để đẩy tà độc, tà công trong người Đoàn Dự theo các huyệt đạo từ hai mạch Dương Duy, Dương Kiều ra ngoài.
Năm đại cao thủ họ Đoàn công lực ngang ngửa nhau, chỉ nghe tiếng vèo vèo, năm nguồn thuần dương nội lực cùng tống vào cơ thể Đoàn Dự. Đoàn Dự thân thể rung động, lập tức thấy người thật là thư thái ấm áp chẳng khác gì đang lúc mùa đông ra sưởi nắng ngoài trời. Năm người vừa vận kình thấy nội lực của mình tuôn vào người Đoàn Dự rồi biến đâu mất không thể nào thu trở về được. Đoàn Dự chưa luyện Bắc Minh thần công đầy đủ kỳ kinh bát mạch nhưng năm cao thủ đẩy nội lực vào người chàng không còn cách nào khác mỗi khi truyền tới biển khí nơi huyệt Đãn Trung thì lập tức chứa vào đó. Năm đại cao thủ họ Đoàn người nọ nhìn người kia, ai nấy kinh hoảng đầy nghi vấn, không hiểu ra sao.
Bỗng nghe một gầm thật lớn, tai người nào người nấy ù cả đi. Bảo Định Đế biết đó là một công phu thượng thừa trong Phật môn tên là Sư Tử Hống, trong thanh âm chứa một luồng nội lực cực kỳ thâm hậu có tác dụng nhiếp phục kẻ địch, cảnh tỉnh phe mình. Bỗng nghe nhà sư quay mặt vào tường lên tiếng:
- Cường địch nội trong hôm nay sẽ tới, uy danh của chùa Thiên Long hàng trăm năm nay lung lay muốn đổ, đứa trẻ miệng còn măng sữa này trúng độc cũng vậy, trúng tà cũng vậy, lẽ nào lại vì y mà hao phí công lực ư?
Mấy câu nói nó đầy vẻ uy nghiêm. Bản Nhân phương trượng đáp:
- Lời dạy của sư thúc phải lắm.
Tay trái ông vẫy một cái, cả năm người cùng lui trở ra. Bảo Định Đế nghe phương trượng gọi ông ta là sư thúc vội nói:
- Không biết có Khô Vinh trưởng lão nơi đây, vãn bối chưa kịp lễ kính quả thực có lỗi.
Thì ra Khô Vinh trưởng lão là người vai vế cao nhất trong chùa Thiên Long, diện bích đã mấy chục năm, chư tăng chúng trong chùa chẳng ai biết khuôn mặt thật của ông ta như thế nào. Bảo Định Đế cũng chỉ nghe tiếng chứ trước nay chưa hề bái kiến, chỉ nghe nói ông ta tu khô thiền_ một mình trong Song Thụ Viện, hơn chục năm qua chẳng nghe ai nhắc đến lại tưởng ông ta đã viên tịch rồi.
Khô Vinh trưởng lão nói:
- Việc có khinh trọng hoãn cấp, ước hẹn với Đại Luân Minh Vương của Đại Tuyết Sơn chớp mắt là tới rồi. Chính Minh, ngươi cũng nên biết việc này.
Bảo Định Đế đáp:
- Vâng!
Ông nghĩ thầm: “Đại Tuyết Sơn Đại Luân Minh Vương Phật pháp uyên thâm nhưng có liên quan gì đến chúng ta đâu?”.
Bản Nhân phương trượng lấy trong túi ra một phong thư sáng choang để vào tay Bảo Định Đế. Bảo Định Đế cầm lấy thấy nặng chình chịch, lá thư đó quả thật kỳ dị, dùng vàng ròng dát thật mỏng làm phong bì trên khảm bạch kim thành chữ Phạn. Bảo Định Đế đọc được thấy viết là: “Thư trình Sùng Thánh Tự trụ trì”. Ông mở ra lấy phong thư cũng là vàng lá dát thật mỏng đại ý viết:
“Năm xưa có duyên gặp được Mộ Dung Bác tiên sinh, đính giao kết bạn để đàm luận võ công đương thời. Mộ Dung Bác tiên sinh rất ngưỡng mộ Lục Mạch Thần Kiếm của quí tự nhưng chưa từng được xem qua nên rất lấy làm thèm khát. Gần đây nghe tin Mộ Dung tiên sinh đã qui tiên, thật là đau lòng, muốn báo đền tấm lòng tri kỷ nên cầu xin quí tự cuốn kinh này để phàn hóa trước mộ của Mộ Dung tiên sinh, ngày một ngày hai sẽ đến lấy xin đừng từ chối. Bần tăng sẽ đem vật quí báu đến đáp đền chứ không dám đến tay không”.
Dưới phong thư thự danh là “Đại Tuyết Sơn Đại Luân Tự Thích tử Cưu Ma Trí chắp tay trăm lạy”. Chữ Phạn trên lá thư cũng nạm bằng bạch kim thật là tinh tế đủ biết do thợ khéo hao phí bao nhiêu tâm huyết mới làm được. Chỉ riêng một lá thư, một bao thư cũng đã là hai món bảo vật trân quí đủ biết người gọi là Đại Luân Minh Vương kia tiêu xài rộng rãi biết chừng nào.
Bảo Định Đế biết Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí là Hộ Quốc Pháp Vương của nước Thổ Phồn nhưng chỉ nghe nói ông ta là kẻ đại trí tuệ, tinh thông Phật pháp, cứ năm năm một lần lại khai đàn giảng kinh thuyết pháp, các cao tăng đại đức ở Tây Trúc, Thiên Trúc kéo đến chùa Đại Luân chất vấn kinh kệ, nghiên thảo nội điển khi trở về ai nấy đều đẹp lòng tấm tắc khen ngợi. Bảo Định Đế Cũng đã tính chuyện thân hành đi nghe giảng kinh. Trong thư này nói là y cùng Mộ Dung Bác đàm luận võ công hai bên kết thành tri kỷ vậy thì y cũng là một đại cao thủ trong võ học. Một người đại trí đại tuệ như thế không học võ thì thôi chứ nếu đã đi vào con đường này thì cũng giỏi không kể đâu cho hết.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Lục Mạch Thần Kiếm Kinh là bảo vật trấn tự, là đỉnh cao của võ học họ Đoàn nước Đại Lý. Chính Minh, võ học tối cao của họ Đoàn ta là ở chùa Thiên Long, ngươi là người thế tục, tuy cũng là con cháu chúng ta, nhưng nhiều bí áo trong võ học cũng không tiết lộ cho ngươi được.
Bảo Định Đế đáp:
- Chính thế, việc đó vãn bối đã biết rồi.
Bản Quan nói:
- Trong bản tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, ngay cả Chính Minh, Chính Thuần các ngươi cũng không biết, không hiểu sao họ Mộ Dung Cô Tô kia lại hay được?
Đoàn Dự nghe đến đây đột nhiên nghĩ ra trong thạch động núi Vô Lượng nơi Lang Hoàn Phúc Địa trên những giá sách trống rỗng kia nơi thẻ “Đại Lý Đoàn thị” có đề “Nhất Dương Chỉ Quyết, thiếu”, “Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, thiếu” bèn nghĩ thầm: “Thần tiên tỉ tỉ thu góp võ phổ quyền kinh các nhà các phái trong thiên hạ nhưng Nhất Dương Chỉ Quyết và Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của nhà ta vẫn không cách nào kiếm ra được”. Chàng trong bụng có vẻ đắc ý nhưng cũng hơi ái ngại, vì như thế hẳn là thần tiên tỉ tỉ sẽ rất đau lòng”.
Chỉ nghe Bản Tham hậm hực nói:
- Gã Đại Luân Minh Vương kia nghe nói là một cao tăng nổi tiếng trên đời sao lại không thông đạo lý chút nào, dám đến chùa chúng ta xin cuốn kinh đó? Chinh Minh, phương trượng sư huynh biết rằng kẻ tốt lành thì chẳng tới, có tới cũng chẳng hay ho gì, hậu quả việc này ra sao không phải là nhỏ nên tự mình không thể chủ trương được nên đã mới Khô Vinh sư thúc đứng ra chủ trì đại cuộc.
Bản Nhân nói:
- Bản tự tuy có cuốn kinh đó thật nhưng nói ra thật là hổ thẹn, không một ai trong chúng ta luyện thành thân công ghi trong kinh, ngay cả có gì kỳ diệu ẩn dấu trong đó cũng không ai biết. Khô Vinh sư thúc luyện tập khô thiền, cũng là một thần công của bản tự đang vào thời kỳ kiết hạ sắp sửa thành tựu. Bọn ta chưa luyện thành thần công, người ngoài chưa chắc đã biết không lẽ Đại Luân Minh Vương ỷ thế không xem mình vào đâu, chẳng coi tuyệt học Lục Mạch Thần Kiếm ra gì hay sao?
Khô Vinh lạnh lùng đáp:
- Xem ra không phải y dám coi thường Lục Mạch Thần Kiếm đâu. Trong thư rõ ràng y rất khâm phục Mộ Dung tiên sinh, mà Mộ Dung tiên sinh lại thèm muốn bộ kinh này. Có điều y cho rằng bản tự không có cao nhân nào xuất quần bạt tụy, bảo kinh tuy quí báu thật nhưng không một ai luyện thành thật là uổng phí.
Bản Tham lớn tiếng nói:
- Nếu y ngưỡng mộ như thế xin hỏi mượn xem qua, chúng ta kính trọng y là một cao tăng cửa Phật, cùng lắm thì cũng chỉ lựa lời từ khước thì cũng không lấy gì quá đáng. Tức nhất là chỗ y muốn đem đi đốt để cúng người chết, có phải coi thường chùa Thiên Long lắm hay sao?
Bản Tướng thở dài nói:
- Sư đệ chớ nên vì việc này mà giận dữ phiền não, ta xem gã Đại Luân Minh Vương kia chẳng phải là kẻ cuồng vọng đâu, có lẽ y học đòi công tử Quí Trát_ nước Ngô treo kiếm trên mộ người xưa dủ biết y cực kỳ khâm phục Mộ Dung tiên sinh. Ôi, bạn hiền đã chết, không còn thấy lại được người xưa...
Nói rồi ông chậm rãi lắc đầu. Bảo Định Đế nói:
- Bản Tướng đại sư có biết Mộ Dung tiên sinh này là ai không?
Bản Tướng đáp:
- Ta không biết. Thế nhưng thử nghĩ Đại Luân Minh Vương là hạng người như vậy mà còn khâm bội như thế thì Mộ Dung tiên sinh hẳn là người thật phi thường.
Nói xong ông lặng người đi. Bản Nhân phương trượng nói:
- Sư thúc xét tình thế bên địch, thấy rằng chúng ta nếu như không luyện cho xong Lục Mạch Thần Kiếm e rằng bảo kinh không chừng bị người ta đoạt mất, uy danh chùa Thiên Long tan ra mây khói. Có điều môn thần kiếm này toàn là do nội lực làm chủ không thể gấp rút một ngày một buổi mà xong. Chính Minh, không phải bọn ta thấy cháu Dự bị trúng tà độc mà thõng tay không ngó ngàng gì đến, chỉ sợ tất cả hao tổn nội lực quá nhiều, cường địch đột nhiên tới nơi thật khó mà chống đỡ. Xem ra y tuy bị trúng tà độc nặng thật nhưng trong vòng vài ngày không nguy gì đến tính mạng, cứ để cho y tĩnh dưỡng ở đây mấy hôm, thương thế nếu như có gì đột biến, chúng ta sẽ tùy thời tìm cách cứu chữa, đợi khi đẩy lui được đại địch rồi, tất cả sẽ giốc toàn lực khu trừ tà độc cho y, được chăng?
Bảo Định Đế tuy lo lắng cho bệnh trạng của Đoàn Dự nhưng ông là người rất biết đại thể, biết rằng chùa Thiên Long là gốc rễ của họ Đoàn nước Đại Lý. Mỗi khi hoàng thất gặp chuyện khó khăn, chùa Thiên Long đều hết sức cứu viện để chuyển nguy thành an. Năm xưa gian thần Dương Nghĩa Trinh giết Thượng Đức Đế soán ngôi tất cả đều nhờ vào chùa Thiên Long hợp với trung thần Cao Trí Thăng dẹp loạn. Họ Đoàn Đại Lý được nước từ năm Đinh Dậu đời Ngũ Đại Thạch Tấn Thiên Phúc thứ hai, tới nay đã một trăm năm mươi tám năm, trải qua biết bao sóng to gió cả nhưng xã tắc cũng không bị sụp đổ đều là nhờ chùa Thiên Long ổn trấn kinh kỳ mấy lần, hôm nay chùa có việc khẩn cấp thật không khác gì xã tắc lâm nguy, bèn nói:
- Phương trượng nhân đức, Chính Minh cảm kích không để đâu cho hết, không biết để đối phó với Đại Luân Minh Vương, Chính Minh có đem chút lực nhỏ giúp đỡ gì được hay chăng?
Bản Nhân trầm ngâm đáp:
- Ngươi là cao thủ đệ nhất trong số tục gia của họ Đoàn ta, nếu như có thể liên thủ cùng ngăn chặn cường địch thì tiếng tăm càng tăng gia. Thế nhưng ngươi là người thế tục mà tham dự vào tranh chấp trong chốn Phật môn, không khỏi khiến cho Đại Luân Minh Vương cười chùa Thiên Long này không có người.
Khô Vinh bỗng nói:
- Nếu chúng ta mỗi người luyện Lục Mạch Thần Kiếm riêng, thì dù là ai chăng nữa cũng không đủ nội lực, chẳng thể nào luyện thành. Ta đã từng nghĩ tới một cách học tắt, mỗi người chỉ luyện một mạch, sáu người cùng ra tay. Tuy rằng lấy sáu địch một có thắng cũng không thượng võ nhưng chúng ta đâu có phải chủ trương cùng y đơn độc tranh hùng mà là bảo kinh hộ tự, dẫu có một trăm người đánh một người thì cũng được như thường. Có điều tính tới tính lui, trong chùa Thiên Long không tìm đâu ra sáu người chỉ lực tương đương cho nên vẫn trù trừ không quyết định được. Chính Minh, ngươi đến thật vừa đủ số. Có điều ngươi phải cạo đầu, mặc tăng y mới được.
Ông ta càng nói càng nhanh dường như có chiều hưng phấn, nhưng giọng nói vẫn lạnh như băng. Bảo Định Đế đáp:
- Qui y đầu Phật vốn là chí nguyện của Chính Minh này, có điều thần kiếm bí áo, Chính Minh chưa từng thấy từng nghe, trong giây lát e rằng...
Bản Tham nói:
- Công phu cơ bản của lộ kiếm pháp này, ngươi vốn đã biết rồi, chỉ cần ghi nhớ kiếm pháp là đủ.
Bảo Định Đế không hiểu hỏi lại:
- Thỉnh phương trượng chỉ điểm.
Bản Nhân phương trượng đáp:
- Ngươi ngồi xuống đây.
Bảo Định Đế liền ngồi xếp bằng trên một chiếc bồ đoàn. Bản Nhân nói:
- Lục Mạch Thần Kiếm không phải là kiếm thực mà là chỉ lực của Nhất Dương Chỉ dùng làm kiếm khí, hữu chất vô hình, có thể gọi là vô hình khí kiếm. Sở dĩ gọi là lục mạch tức là sáu mạch trên tay bao gồm Thái Âm Phế Kinh, Quyết Âm Tâm Bao Kinh, Thiếu Âm Tâm Kinh, Thái Dương Tiểu Trường Kinh, Dương Minh Vị Kinh, Thiếu Âm Tam Tiêu Kinh.
Nói rồi ông lấy từ phía sau bồ đoàn Bản Quan đang ngồi ra một quyển trục. Bản Tướng cầm lấy treo lên trên tường, quyển trục mở ra mặt vải vì lâu ngày nên đã vàng ố, trên đó vẽ một người đàn ông khỏa thân, thân thể ghi rõ các huyệt đạo, các đường kinh mạch màu đỏ và màu đen vận chuyển thế nào. Bảo Định Đế là một đại hành gia về Nhất Dương Chỉ, pho Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này dùng chỉ lực Nhất Dương Chỉ làm cơ bản nên ông vừa trông đã hiểu ngay.
Đoàn Dự ngồi dưới đất thấy trên cẩm trục vẽ hình người đàn ông lõa thể, nhớ đến cuốn kinh mình làm rách mất, nghĩ thầm: “Kinh mạch huyệt đạo trên con người, nam nữ có khác gì nhau, thần tiên tỉ tỉ kể cũng lạ, tại sao lại vẽ thành hình đàn bà, mà những người khỏa thân kia lại vẽ tướng mạo của mình là sao?”. Chàng xem ra có điều gì không ổn, dường như thần tiên tỉ tỉ muốn đem sắc đẹp để dụ dỗ người ta, khiến người ta không thể không luyện thần công ghi trong đó, mình trong lúc thần trí mơ hồ làm hủy hoại cuốn kinh, không chừng lại làm tiêu tan một trường kiếp nạn. Có điều nếu nghĩ như thế thì quả là khinh mạn thần tiên tỉ tỉ nên ý nghĩ chỉ thoáng qua trong đầu rồi thôi, không dám nghĩ ngợi thêm nữa.
Bản Nhân nói:
- Chính Minh, ngươi là chủ của nước Đại Lý, cải trang mặc quần áo khác, tuy chỉ là kế quyền nghi nhất thời, nhưng nếu để đối phương nhìn ra thì thật là tổn hại đến quốc thể. Lợi hại hai bên thế nào, nhà ngươi tự quyết định lấy.
Bảo Định Đế chắp hai tay nói:
- Hộ pháp hộ tự là việc nghĩa lẽ nào còn tính toán gì nữa.
Bản Nhân nói:
- Hay lắm, chỉ vì Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này không truyền cho đệ tử tục gia, ngươi phải thế độ thì ta mới truyền cho ngươi được. Đợi khi nào đẩy lui được cường địch rồi lúc ấy ngươi hãy hoàn tục.
Bảo Định Đế đứng lên, quì hai gối xuống nói:
- Xin đại sư mở lòng từ bi.
Khô Vinh đại sư nói:
- Ngươi lại đây, để ta thế độ cho ngươi.
Bảo Định Đế tiến lên quì xuống ở sau lưng ông ta. Đoàn Dự thấy bá phụ định cắt tóc đi tu, trong lòng hơi bàng hoàng. Khô Vinh đại sư đưa tay phải ra, vòng lại sau để lên đầu Bảo Định Đế, bàn tay trông như không còn chút thịt nào, da sát vào chẳng khác gì một bộ xương khô. Khô Vinh đại sư vẫn ngồi đó không quay lại đọc một bài kệ:
Đã mang nghiệp xuống cõi trần,
Khác chi hạt bụi xoay vần hư không.
Lang thang nơi cõi mênh mông,
Nếu chưa kiến tính còn trong luân hồi.
Nhất vi trần trung nhập tam muội,
Thành tựu nhất thiết vi trần định.
Nhi bỉ vi trần diệc bất tăng,
Ư nhất phổ hiện nan tư sát.
Bàn tay ông đưa lên bao nhiêu tóc trên đầu Bảo Định Đế lả tả rơi xuống, đầu trọc lốc không còn một sợi nào, tưởng như có dùng dao cạo cũng không nhẵn được đến thế. Đoàn Dự cố nhiên hết sức kinh ngạc mà cả Bảo Định Đế, Bản Quan, Bản Nhân mọi người đều vô cùng bội phục: “Khô Vinh đại sư tham tu khô thiền công lực đạt đến mức cao thâm thật”.
Lại nghe Khô Vinh đại sư nói tiếp:
- Ngươi vào cửa Phật lấy pháp danh là Bản Trần.
Bảo Định Đế chắp tay đáp:
- Tạ sư phụ ban cho tên này.
Trong Phật môn không còn câu nệ vai vế ngoài đời, Bản Nhân phương trượng tuy là thúc phụ của Bảo Định Đế nhưng Bảo Định Đế được Khô Vinh thế độ nên thành sư đệ của Bản Nhân. Kế đó Bảo Định Đế đi thay tăng bào, tăng hài biến ngay thành một vị hữu đạo cao tăng.
Khô Vinh đại sư nói:
- Gã Đại Luân Minh Vương kia hôm nay sẽ đến không chừng. Bản Nhân, ngươi đem những bí áo trong Lục Mạch Thần Kiếm truyền cho Bản Trần.
Bản Nhân đáp:
- Vâng!
Ông chỉ vào kinh mạch đồ trên tường nói:
- Bản Trần sư đệ, trong sáu mạch đây, ngươi chuyên tập Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh Mạch, chân khí từ Đan Điền chạy vào các huyệt nơi cánh tay và vai, từ Thanh Lãnh Uyên đến huyệt Thiên Tỉnh nơi khoeo tay, sau đó chạy tới Tứ Độc, Tam Dương Lạc, Hội Tông, Ngoại Quan, Dương Trì, Trung Chử, Dịch Môn, ngưng tụ chân khí từ ngón tay vô danh theo huyệt Quan Xung mà phóng ra.
Bảo Định Đế y theo đó vận chân khí, ra đến đầu ngón tay vô danh nghe tiếng vèo vèo theo huyệt Quan Xung vọt ra. Khô Vinh đại sư vui mừng nói:
- Nhà ngươi nội lực tu luyện không phải tầm thường. Pho kiếm pháp này tuy biến hóa phức tạp thật nhưng nếu kiếm khí đã thành rồi thì có thể tùy ý mà vận dụng.
Bản Nhân nói:
- Cứ theo bản ý của Lục Mạch Thần Kiếm thì phải do một người cùng sử dụng cả sáu mạch kiếm khí. Có điều bây giờ là thời mạt thế, võ học suy vi, không có ai nội lực đủ hùng hậu để làm chuyện đó, chúng ta đành phải sáu người chia ra sử dụng sáu mạch kiếm khí. Sư thúc chuyên luyện Thiếu Thương Kiếm ở ngón tay phải, ta chuyên luyện Thương Dương Kiếm ở ngón tay trỏ, Bản Quan sư huynh luyện Trung Xung Kiếm ở ngón tay giữa, Bản Trần sư đệ luyện Quan Xung Kiếm ở ngón tay vô danh, Bản Tướng sư huynh luyện Thiếu Xung Kiếm ở ngón tay út, Bản Tham sư đệ luyện Thiếu Trạch Kiếm ở ngón út tay trái. Việc không thể chậm trễ, chúng ta nên bắt đầu ngay là vừa.
Ông ta lấy ra sáu bức đồ hình, treo lên bốn bức tường, hình vẽ Thiếu Thương Kiếm ngay trước mặt Khô Vinh đại sư. Mỗi bức vẽ đầy những đường ngang dọc giao thoa, hình tròn cũng như hình cánh cung. Sáu người ai nấy chăm chú luyện kiếm khí đồ của mình, giơ ngón tay ra điểm hờ, vẽ hờ lên trên không.
Đoàn Dự len lén ngồi lên thấy chân khí trong người dâng tràn, so với khi trước còn khó chịu hơn nhiều. Thì ra Bảo Định Đế, cùng sư huynh đệ của phương trượng Bản Nhân đã đem một số lượng nội lực đáng kể truyền vào người chàng. Đoàn Dự thấy bá phụ và những người khác tập trung tinh thần vận công nên không dám lên tiếng quấy nhiễu, ngồi ngơ ngẩn một lúc thấy thật rảnh rỗi, vô ý đưa mắt nhìn vào bức hình kinh mạch huyệt đạo treo trước mặt Khô Vinh đại sư. Chàng coi một hồi bỗng thấy cánh tay phải của mình giật giật liên tiếp, tưởng như có con gì ở trong da thịt muốn chui ra ngoài. Nơi con vật muốn chui ra đó chính là huyệt Khổng Tối ghi trên đồ hình.
Đường kinh mạch Thủ Thái Âm Phế Kinh chàng đã từng luyện qua, những huyệt đạo trên tường giống hệt những huyệt ghi trên hình người đàn bà khỏa thân nhưng đường đi thì hoàn toàn khác hẳn. Chàng nhìn theo một đường dây đỏ trên bức vẽ, từ huyệt Khổng Tối đến huyệt Đại Uyên rồi nhảy trở về Xích Trạch, rồi chạy xuống dưới tới huyệt Ngư Tế, tuy chạy ngược chạy xuôi nhưng luồng chân khí tả xung hữu đột trong cơ thể vẫn thuận theo tâm ý, chạy ngược lên đến khuỷu tay rồi chạy thẳng lên cánh tay. Chân khí thuận theo kinh mạch mà vận hành, bao nhiêu nhộn nhạo khó chịu trong người liền tiêu giảm, chàng chuyên tâm ngưng chí đem luồng chân khí chuyển vào huyệt Đãn Trung.
Thế nhưng kinh mạch vận hành không giống như theo người đàn bà khỏa thân trên bức trục gấm nên luồng chân khí này không dễ dàng chạy vào huyệt Đãn Trung. Một hồi sau chàng liền phải suýt soa kêu lên mấy tiếng, Bảo Định Đế vội quay lại hỏi:
- Cháu thấy trong người ra sao?
Đoàn Dự đáp:
- Trong người cháu có vô số khí chạy nhảy lung tung, khó chịu quá. Cháu theo các sợi đỏ trên bức hình của thái sư bá để đưa khí về huyệt Đãn Trung, nhưng chao ôi! huyệt Đãn Trung càng lúc càng đầy ứ, không đưa thêm vào được. Cháu... cháu... huyệt Đãn Trung của cháu muốn nổ tung ra.
Cái cảm giác đó chỉ có người trong cuộc mới biết, chàng thấy ngực căng phồng lên tưởng như sắp vỡ đến nơi còn người ngoài không thấy gì khác thường. Bảo Định Đế biết rằng tu tập nội công ắt sẽ có những huyễn tượng, nhưng nếu huyệt Đãn Trung căng phồng muốn vỡ tung ra thì ít nhất cũng phải tu tập hai chục năm, nội lực hồn hậu vô cùng mới có cảm giác đó được, còn Đoàn Dự chưa từng học qua nội công, huyễn tượng đó hẳn là vì bị trúng tà độc mà thành.
Bảo Định Đế thầm kinh hoảng biết rằng nếu như chàng không thể đạo khí qui hư_ thân thể sẽ bị tê liệt, thế nhưng nếu đem luồng tà độc ấy đưa vào tạng phủ thì sau này trục được ra còn khó khăn vạn lần. Bình thời mỗi khi gặp chuyện nguy nan đại sự ông luôn luôn sáng suốt quả cảm, chỉ một lời là quyết định xong nhưng trước mặt việc quan hệ đến cả đời Đoàn Dự, chỉ sai sẩy một chút lập tức có thể nguy đến tính mạng. Oâng thấy Đoàn Dự hai mắt thần quang tán loạn xem ra có vẻ điên cuồng, không còn chần chờ gì nữa lập tức quyết định: “Thôi thì chỉ còn có nước “ẩm chậm chỉ khát”_ đành vậy biết làm sao hơn”. Ông bèn nói:
- Dự nhi, để ta dạy cháu pháp môn đạo khí qui hư.
Ông liền đem phương pháp chỉ dẫn cho Đoàn Dự. Đoàn Dự không đợi ông nói xong, nghe câu nào lập tức áp dụng ngay câu ấy. Pháp yếu về nội công của họ Đoàn nước Đại Lý quả thực tinh diệu tuyệt luân, chàng vừa theo đó mà làm, bốn luồng chân khí đang cuồn cuộn ở bên ngoài liền thu vào trong tạng phủ. Y thư Trung Quốc gọi các bộ phận trong con người là tạng phủ, tạng đồng nghĩa với tàng trữ còn phủ chính là kho lẫm nên đã hàm ý tụ tập tích súc. Đoàn Dự đầu tiên hút được toàn bộ nội lực của bảy tên đệ tử Vô Lượng Kiếm, sau lại hút một phần nội lực của các cao thủ Đoàn Diên Khánh, Hoàng Mi tăng, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu, Thôi Bách Tuyền, hôm nay lại được thêm một ít của năm đại cao thủ là Bảo Định Đế, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham, Bản Nhân nên chân khí trong người rất dồi dào, nội lực mạnh mẽ có thể nói là trên đời không ai bì kịp. Bây giờ chàng được bá phụ chỉ điểm, đem các luồng chân khí này tàng trữ nơi tạng phủ, toàn thân càng lúc càng khoan khoái, thấy người nhẹ nhàng tưởng chừng có thể bay lên không.
Bảo Định Đế thấy chàng mặt tươi như hoa cực kỳ vui sướng lại tưởng chàng bị rơi vào ma chướng đã sâu, e rằng tà độc từ này sẽ đeo đuổi không thôi càng khó trừ hơn nữa, không khỏi di lụy suốt đời, trong bụng thầm chua chát.
Khô Vinh đại sư thấy Bảo Định Đế đã truyền dạy công phu xong liền bảo:
- Bản Trần, duyên nghiệp của con người ai làm nấy chịu, họa phúc đúng sai đều do tâm mà sinh ra. Con cũng chẳng nên quá lo lắng cho người khác, mau luyện Thiếu Dương Kiếm đi.
Bảo Định Đế đáp:
- Vâng!
Ông cố gắng thu nhiếp tâm thần, tiếp tục nghiên cứu kiếm pháp. Chân khí trong người Đoàn Dự cực kỳ sung mãn, một buổi một lúc không thể nào đưa hết về tàng trữ trong tạng phủ được, nhưng có điều pháp môn này càng thực hành càng thuần thục, về sau cùng thu càng nhanh. Trong tăng xá bảy người ai cũng lo hành công không để ý phương đông trời đã hưng hửng sáng.
Bỗng nghe tiếng gà gáy vọng lại, Đoàn Dự thấy trong khắp người mình không còn chút chân khí nào ở ngoài nữa nên đứng lên vận động cho dãn gân cốt, thấy bá phụ và năm vị cao tăng vẫn chuyên tâm nghiên luyện kiếm pháp. Chàng không dám mở cửa bước ra ngoài tản bộ, cũng không dám lên tiếng làm rộn sáu người đang hành công, không có việc gì làm, tiện thể nhìn lên hình vẽ kinh mạch của bá phụ xem thử, rồi quay sang nhìn kiếm pháp đồ hình Thiếu Dương Kiếm, tuy đã nghe thái sư bá nói là Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia tử đệ, nhưng nghĩ thầm loại kiếm pháp cao thâm thế này chàng làm sao học nổi có xem cũng chỉ xem chơi cho biết.
Chàng coi đến lúc tâm thần chuyên chú, đột nhiên cảm thấy một luồng chân khí từ đan điền xông lên đến cánh tay thuận theo đường chỉ đỏ đến huyệt Quan xung ở ngón tay vô danh. Chàng không biết cách vận khí phóng ra chỉ thấy đầu ngón tay vô danh căng phồng thật khó chịu nghĩ thầm: “Thôi ta phải đem luồng khí này trở về mới được”. Chàng nghĩ vậy lập tức luồng chân khí đi theo kinh mạch chạy trở về đan điền.
Đoàn Dự có biết đâu mình vô ý học được một phương pháp nội công thượng thừa, chỉ cảm thấy luồng chân khí chạy tới chạy lui trên cánh tay, muốn sao được vậy, thật là thích thú. Trong ba nhà sư ở Mâu Ni Đường chàng thấy hòa thượng Bản Tướng vui vẻ dễ thân cận nhất nên quay sang nhìn Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh Mạch Đồ của ông ta. Kinh mạch này chạy từ huyệt Cực Tuyền ở dưới nách đi đến huyệt Thanh Linh ở trên khuỷu tay ba tấc, đến huyệt Thiếu Hải ở chỗ lõm dưới cùi chỏ, đi qua các huyệt Linh Đạo, Thông Lý, Thần Môn, Thiếu Phủ tận cùng ở huyệt Thiếu Xung nơi ngón tay út. Chàng ngẫm nghĩ tự nhiên thấy một luồng chân khí đi theo lộ tuyến kinh mạch mà vận hành, có điều nhanh chậm rộng hẹp thì chưa được như ý, có khi thì được, có lúc lại không đi, nghĩ tại mình công lực chưa được bao nhiêu nên cũng không để ý tới nữa.
Chỉ trong nửa ngày Đoàn Dự đã thông qua tất cả các huyệt đạo trên sáu bức đồ hình. Chàng thấy tinh thần sảng khoái, cũng chẳng có việc gì làm nên lại quay qua xem hình vẽ của Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch sáu đường kiếm pháp. Chỉ thấy chỉ đen chỉ đỏ, ngang dọc giao thoa đầu mối thật khó mà dò nghĩ thầm: “Các kiếm chiêu phiền toái thế này, việc gì phải nhớ làm chi? Huống chi thái sư bá đã bảo rằng, tục gia tử đệ không được học kia mà”.
Chàng bèn không xem nữa, trong bụng thấy đói nghĩ bụng: “Sao mấy chú tiểu không ai mang cơm chay hay mì gì cả? Thôi mình len lén chui ra ngoài kiếm gì ăn mới được”. Ngay lúc đó chàng ngửi thấy một mùi đàn hương thơm ngát, tiếp theo là tiếng Phạn tụng niệm văng vẳng tiếng được tiếng mất từ xa truyền tới.
Khô Vinh đại sư nói:
- Thiện tai! Thiện tai! Đại Luân Minh Vương đã đến rồi đây. Các ngươi luyện được đến đâu rồi?
Bản Tham đáp:
- Tuy chưa thuần thục, nhưng xem chừng cũng đủ để nghinh địch rồi.
Khô Vinh đại sư nói:
- Hay lắm! Bản Nhân, ta không muốn đi ra vậy ngươi ra mời Minh Vương vào trong Mâu Ni Đường để gặp nhau.
Bản Nhân phương trượng đáp lời:
- Vâng!
Rồi đi ra ngoài. Bản Quan nhặt năm chiếc bồ đoàn lên xếp thành một hàng ở phía đông, bên phía tây để một cái bồ đoàn khác. Ông ta ngồi vào chiếc đệm thứ nhất, Bản Tướng thứ hai, Bản Tham thứ tư để trống chiếc thứ ba cho Bản Nhân phương trượng. Bảo Định Đế ngồi ở chiếc đệm thứ năm còn Đoàn Dự không có chỗ ngồi nên đứng sau lưng Bảo Định Đế.
Cả Khô Vinh lẫn những người khác ôn lại đồ hình một lần cuối rồi mới cuộn các hình vẽ đó lại, để ở trước mặt Khô Vinh đại sư. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, tới khi kịch chiến trong phòng kiếm khí tung hoành rất là hung hiểm, báp hụ không thể nào phân tâm bảo hộ cho cháu được. Cháu đi ra ngoài chơi thì hơn.
Đoàn Dự trong lòng đau đớn: “Nghe lời của mọi người thì gã Đại Luân Minh Vương này võ công cực kỳ lợi hại, Quan Xung kiếm pháp bá phụ mới luyện đây, không biết có địch lại y không, nếu sơ sẩy thì biết làm sao?”. Chàng bèn nói:
- Bá bá, cháu... cháu ở đây với bác, bác đấu kiếm với người ta cháu không yên tâm...
Chàng nói đến mấy tiếng sau cùng, thanh âm nghẹn ngào. Bảo Định Đế trong lòng rung động: “Thằng bé này quả là có hiếu”.
Khô Vinh đại sư nói:
- Dự nhi, cháu ngồi trước mặt ta đây, Đại Luân Minh Vương kia dẫu có lợi hại đến đâu cũng không động đến một sợi lông của cháu được.
Giọng nói của ông ta tuy lạnh như băng nhưng ngữ khí có vẻ như ngạo nghễ. Đoàn Dự đáp:
- Vâng!
Chàng khom lưng đi vào trước mặt Khô Vinh đại sư nhưng không dám ngẩng lên nhìn mặt ông ta, chỉ xếp bằng ngồi xuống. Thân hình Khô Vinh đại sư cao hơn Đoàn Dự nhiều nên che hết người chàng. Bảo Định Đế trong lòng cảm kích lại cũng yên tâm, mới rồi Khô Vinh đại sư dùng Khô Thiền Công cạo đầu cho ông, thần công đó có thể nói là trên đời không ai bì kịp, muốn bảo vệ Đoàn Dự thật quả có thừa.
Sau đó Mâu Ni Đường thật lặng thinh hoàn toàn không một tiếng động. Một lúc sau có tiếng Bản Nhân phương trượng:
- Minh Vương pháp giá xin mới quá bộ lại Mâu Ni Đường.
Kế đó có tiếng người nói:
- Cảm phiền phương trượng dẫn đường cho.
Đoàn Dự nghe giọng nói thật là thân thiết hòa hoãn rất là lễ độ không phải là kẻ hung ác áp bức người khác. Nghe tiếng chân có đến mươi người rồi tiếng Bản Nhân phương trượng mở cửa nói:
- Xin mời Minh Vương.
Đại Luân Minh Vương cất bước tiến vào Phật đường nói:
- Xin phép.
Ông ta hướng về phía Khô Vinh đại sư chắp tay hành lễ nói:
- Vãn bối Cưu Ma Trí của nước Thổ Phồn tham kiếm tiền bối đại sư.
Một tươi một héo hai cây,
Hữu thường bên nọ bên đây vô thường.
Đông Tây Nam Bắc bốn phương,
Thật không, không thật đều không là gì.
Hữu thường vô thường,
Song thụ khô vinh.
Nam Bắc Tây Đông,
Phi giả phi không.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Bốn câu kệ này có nghĩa là gì?” Thế nhưng Khô Vinh đại sư giật mình: “Đại Luân Minh Vương bác học tinh thâm, quả thật danh bất hư truyền. Y vừa mới gặp mặt đã nói ngay được lai lịch lối tu khô thiền của ta”.
Năm xưa khi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn nơi giữa hai cây bà la_ tại thành Câu Thi Na_ thì bốn phía đông tây nam bắc mỗi hướng có hai cây, một cây tươi, một cây khô cho nên gọi là “tứ khô tứ vinh”. Cứ theo kinh Phật chép: hai cây ở hướng đông tượng trưng cho thường và vô thường, hai cây ở phương nam tượng trưng cho lạc và vô lạc, hai cây ở phương tây tượng trưng cho ngã và vô ngã, còn hai cây ở phương bắc tượng trưng cho tịnh và vô tịnh. Cây cối xanh tốt tượng trưng cho bản tướng tức là thường, lạc, ngã, tịnh; còn khô héo điêu tàn là thực tướng tức là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Phật Như Lai nhật diệt ở trong tám cảnh giới đó có ý là phi khô phi vinh, phi giả phi không.
Khô Vinh đại sư mấy chục năm qua tu khô thiền cũng chỉ mới cảnh giới “bán khô bán vinh”, không sao lên thêm một tầng nữa để được tới cảnh giới “phi khô phi vinh, diệc khô diệc vinh” nên không khỏi thảng thốt nói:
- Minh Vương từ xa tới đây, lão nạp không đi ra đón được, xin Minh Vương mở lòng từ bi mà tha lỗi cho.
Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí đáp:
- Uy danh của chùa Thiên Long tiểu tăng đã hâm mộ từ lâu, hôm nay được thấy bảo tướng trang nghiêm thực là hân hạnh.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Xin mời Minh Vương ngồi.
Cưu Ma Trí cảm tạ ngồi xuống. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không biết vị Đại Luân Minh Vương này hình dáng thế nào?”. Chàng len lén nghiêng đầu nhìn qua bên hông Khô Vinh đại sư thấy trên một nhà sư mặc tăng bào màu vàng ngồi chiếc bồ đoàn phía tây. Y chưa đến năm mươi tuổi, áo vải giày rơm, vẻ mặt vui tươi dường như có ánh sáng lẩn khuất chẳng khác gì minh châu bảo ngọc tự mang vẻ sáng. Đoàn Dự chỉ mới nhìn qua ông ta đôi lần trong lòng đã nảy sinh một vẻ ngưỡng mộ thân cận. Chàng lại nhìn qua khe cửa ra ngoài thấy có tám chín hán tử, mặt mày bặm trợn dễ sợ trông không phải người Trung Thổ, chắc là những tùy tòng Đại Luân Minh Vương mang từ Thổ Phồn qua.
Cưu Ma Trí chắp hai tay nói:
- Đức Phật có dạy rằng: Phải vào được cảnh giới không sinh không diệt, không nhơ bẩn cũng không thanh sạch. Thế nhưng tiểu tăng căn khí ngu độn không sao hiểu được lý lẽ yêu ghét tử sinh. Bình sinh tiểu tăng có một người tri giao, là người đất Cô Tô nhà Đại Tống, họ Mộ Dung, tên đơn là Bác. Năm xưa tiểu tăng có duyên gặp gỡ, hai bên đàm luận chuyện võ nghệ. Vị Mộ Dung tiên sinh kia võ học trong thiên hạ không gì không am tường, chỗ nào cũng tinh thông, tiểu tăng được ông ta chỉ điểm mấy ngày, những chỗ còn hồ nghi đều được giải đáp, lại được Mộ Dung tiên sinh khẳng khái tặng cho bí cập thượng thừa, cái ơn sâu xa đó không thể nào quên được. Ngờ đâu bậc đại anh hùng trời lại không cho ở lâu, Mộ Dung tiên sinh tây qui cực lạc mất rồi. Tiểu tăng có một việc cầu xin thật là không thuận tình xin quí vị trưởng lão mở lòng từ bi.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Minh Vương quen biết Mộ Dung tiên sinh cũng là nhân duyên mà thôi, duyên phận hết rồi việc gì phải cưỡng cầu làm gì? Mộ Dung tiên sinh vãng sinh cực lạc đi lễ phật ở chốn liên trì thì còn để tâm gì đến chuyện võ học ở chốn nhân gian? Việc của Minh Vương đang cố công kia phải chăng thêm chân cho rắn?
Cưu Ma Trí đáp:
- Phương trượng chỉ điểm quả thực là chí lý. Có điều tiểu tăng tính tình tham luyến chấp nê, bế quan bốn mươi ngày vẫn không sao dứt được mối tình bè bạn. Năm xưa khi Mộ Dung tiên sinh luận về kiếm pháp trong thiên hạ quả quyết rằng Lục Mạch Thần Kiếm của chùa Thiên Long nước Đại Lý là kiếm pháp đệ nhất trong thiên hạ, nhưng tiếc rằng chưa dịp thấy qua khiến phải hối tiếc cả một đời.
Bản Nhân nói:
- Tệ tự ở nơi hẻo lánh phương nam được Mộ Dung tiên sinh yêu mến quả là vinh hạnh. Thế nhưng sao năm xưa Mộ Dung tiên sinh không đích thân tới mượn kiếm kinh xem qua cho biết?
Cưu Ma Trí thở dài một tiếng, sắc mặt sầu thảm, yên lặng một hồi rồi mới đáp:
- Mộ Dung tiên sinh cũng biết kinh này là vật chí bảo của quí tự nếu đến đòi xem ắt là không được. Ông ta bảo là họ Đoàn Đại Lý tuy ở chỗ phú quí đến cực điểm nhưng không quên nghĩa khí giang hồ thuở xưa, yêu thương trăm họ, nhân đức thấm nhuần khắp lê dân nên không tiện ra tay cưỡng đoạt trộm cắp.
Bản Nhân cảm tạ nói:
- Xin cám ơn Mộ Dung tiên sinh đã khen ngợi. Nếu Mộ Dung tiên sinh đã coi trọng họ Đoàn nước Đại Lý như thế, Minh Vương là bằng hữu của ông ta thì cũng nên thể niệm di chí của người đã khuất.
Cưu Ma Trí đáp:
- Có điều năm xưa tiểu tăng từng huênh hoang nói rằng: Tiểu tăng là Quốc Sư nước Thổ Phồn đối với họ Đoàn Đại Lý vô thân vô cố, Thổ Phồn Đại Lý hai nước cũng chưa từng có bang giao mật thiết. Nếu như Mộ Dung tiên sinh không tiện tự mình đến lấy thì tiểu tăng thay mặt làm cho. Đại trượng phu một lời nói ra, dẫu chết cũng không hối hận. Tiểu tăng đã ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh như thế rồi thì không thể nào nuốt lời được.
Nói xong giơ tay vỗ nhẹ ba cái. Từ ngoài cửa hai hán tử khiêng một cái rương bằng gỗ đàn hương tiến vào để dưới đất. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, nắp thùng không có gió mà tự mở ra, thấy bên trong là một hộp nhỏ khác màu vàng chói lọi. Cưu Ma Trí cúi xuống cầm cái hộp bưng lên tay.
Bản Nhân nghĩ thầm: “Bọn ta đã là người xa lánh cuộc đời, không lẽ còn tham lam những loại kỳ trân dị bảo? Hơn nữa, họ Đoàn là chủ nước Đại Lý, tích súc trong một trăm năm mươi năm qua, có thiếu gì bạc vàng châu báu?”.
Cưu Ma Trí mở chiếc hộp ra, lấy ra ba tập sách mỏng. Y tiện tay lật mấy tờ, bọn Bản Nhân liếc mắt nhìn qua thấy trong sách có vẽ hình viết chữ bằng mực bằng son. Cưu Ma Trí đăm đăm nhìn ba cuốn sách, đột nhiên nước mắt đầm đìa rơi xuống ướt đẫm cả bâu áo, thần tình thật là đau khổ không sao kể xiết. Cả bọn Bản Nhân ai ai cũng thấy ngạc nhiên.
Khô Vinh đại sư nói:
- Minh Vương vẫn còn nghĩ đến người bạn xưa chưa quên, lòng trần chưa thanh tịnh há chẳng thẹn cho hai tiếng “cao tăng“ hay sao?
Đại Luân Minh Vương ủ rũ đáp:
- Đại sư đầy đủ trí tuệ, đại thần thông, tiểu tăng làm sao theo kịp. Ba quyển võ công yếu quyết này, chính là từ tay Mộ Dung tiên sinh viết thành, xiển thuật yếu chỉ về tập luyện và cách phá giải bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.
Mọi người nghe nói thế ai nấy đều sửng sốt, nghĩ thầm: “Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đã lừng danh thiên hạ, nghe nói từ khi phái Thiếu Lâm sáng lập đến nay, trừ một vị cao tăng đầu đời Tống luyện được hai mươi ba môn, ngoài ra không một ai luyện được trên hai mươi tuyệt kỹ cả. Vị Mộ Dung tiên sinh này thông hiểu toàn bộ bảy mươi hai môn cũng đã khó tin rồi, lại còn biết cả cách phá giải thì không thể nào ngờ nổi”.
Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Được Mộ Dung tiên sinh tặng cho ba quyển kỳ thư này, tiểu tăng giở ra xem quả thật ích lợi rất nhiều. Vậy nay xin đem ba quyển kỳ thư để xin đổi lấy Lục Mạch Thần Kiếm bảo kinh của quí tự. Xin quí vị đại sư bằng lòng cho để tiểu tăng được hoàn thành lời hứa năm xưa, quả thực cảm kích không đâu cho hết.
Bản Nhân phương trượng lặng thinh không trả lời, nghĩ thầm: “Ba cuốn sách này nếu quả có chép bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm thì bản tự có được rồi, võ học không phải chỉ cùng phái Thiếu Lâm đứng ngang hàng mà còn có phần trội hơn là khác. Chùa Thiên Long từ nay thông hiểu tất cả tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm nhưng phái Thiếu Lâm làm sao biết được tuyệt kỹ của chùa Thiên Long”.
Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Trước khi quí tự tặng cho bảo kinh vẫn có thể để lại phó bản, chúng vị đại sư gia ơn cho tiểu tăng, thương xót cả đến nắm xương trắng dưới mồ, tự thân không mất mát gì là một điều. Tiểu tăng bái lĩnh bảo kinh lập tức gói kín, quyết không ghé mắt coi trộm, tự mình đem đến trước mộ Mộ Dung tiên sinh phàn hóa, cao nghệ của quí tự không thể nào lọt được ra ngoài, đó là hai điều. Các vị đại sư trong quí tự võ học uyên thâm, vốn chẳng cầu đến những môn của người ngoài, nhưng khốn nỗi đá núi vẫn có thể đem đập vỡ được ngọc, bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm cũng có chỗ độc đáo của nó, trong đó Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, và Vô Tướng Kiếp Chỉ ba loại chỉ pháp, cùng với Nhất Dương Chỉ của quí phái có thể đem ra ấn chứng lẫn nhau, đó là ba điều.
Bọn Bản Nhân lúc đầu khi nhận được lá thư viết bằng vàng lá của y nghĩ rằng Cưu Ma Trí mưu toan cưỡng đoạt bảo vật trấn tự của chùa Thiên Long, quả thật ngang ngược, thế nhưng đến lúc này thấy y nói năng rành rọt, xem ra có tình có lý, dường như chùa Thiên Long chỉ có lợi mà không tổn hại gì, lại còn được y tự tay mang đến một món lễ vật hậu hĩ. Bản Tướng đại sư vốn tính tham lam, trong bụng đã có ý bằng lòng, thế nhưng đứng về mặt tôn ti thì còn sư thúc ở trên, còn nói về mặt địa vị thì còn phương trượng nên không tiện nói ra thành lời.
Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Tiểu tăng tuổi còn trẻ, kiến thức còn nông, chỉ nói không chưa chắc các vị đại sư đã tin. Chi bằng tiểu tăng đem phô cái xấu ra trước các vị ba môn chỉ pháp trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.
Y nói xong đứng lên:
- Năm xưa tiểu tăng chẳng qua chỉ vì quá cao hứng nên vụng về tập qua, công phu còn thô sơ lắm, mong được các vị chỉ điểm thêm. Lộ chỉ pháp này là Niêm Hoa Chỉ.
Y giơ ngón tay cái và ngón tay trỏ bên phải làm như đang cầm một đóa hoa tươi, miệng hơi mỉm cười, năm ngón tay trái búng nhẹ qua bên phải. Trong Mâu Ni Đường ngoài Đoàn Dự ra, ai ai cũng là những đại hành gia suốt đời nghiên cứu chỉ pháp, thấy y ra tay thật là nhẹ nhàng, mỗi lần tay trái búng ra tưởng như đang rũ cho những hạt sương còn đọng trên đóa hoa tươi nhưng lại e ngại sẽ làm rụng những cánh hoa, mặt lúc nào cũng mỉm cười hết sức từ hòa quả là trong lòng sảng khoái. Cứ như lịch sử Thiền tông truyền lại, khi đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp trên đỉnh Linh Sơn, ngài cầm trên tay một bông hoa ba la vàng giơ lên cho mọi người coi, ai nấy lặng thinh không trả lời, chỉ có Ca Diếp tôn giả mặt rạng rỡ nở một nụ cười. Thích Ca Mâu Ni biết Ca Diếp đã lãnh ngộ được tâm pháp liền nói:
- Ta có chính pháp nhãn tàng, niết bàn pháp môn, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền nay trao cho Ma Ha Ca Diếp.
Thiền tông coi việc tâm truyền, đốn ngộ là điều quan trọng nhất, phái Thiếu Lâm thuộc về Thiền tông, lại càng tinh cứu môn Niêm Hoa Chỉ này.
Thế nhưng Cưu Ma Trí búng ngón tay không thấy gì là thần thông, liên tiếp mấy chục cái rồi giơ tay áo bên phải lên, há mồm thổi phù một cái, lập tức tay áo bay lả tả những mảnh vải tròn như đồng tiền, trên tay áo hiện ra mấy chục cái lỗ nhỏ. Thì ra mấy chục lần sử dụng Niêm Hoa Chỉ của Cưu Ma Trí đều xuyên qua không khí đâm vào tay áo mình, nhu lực làm rách áo nhưng thoạt nhìn không ai biết, chỉ hơi có gió lúc ấy công lực mới lộ ra.
Bản Nhân cùng với Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham và Bảo Định Đế người nọ nhìn người kia, ai nấy kinh hãi thầm: "Với công lực của mình nếu dùng Nhất Dương Chỉ hư điểm vào cho rách áo thành lỗ thì không có gì khó, nhưng ra tay nhẹ nhàng như thế, vẻ mặt ôn hòa mỉm cười mà vận được thần công thì mình không thể nào làm nổi. Môn Niêm Hoa Chỉ này khác hẳn Nhất Dương Chỉ, nội lực âm nhu, quả thực có điểm độc đáo đáng phải học hỏi”.
Cưu Ma Trí mỉm cười nói:
- Quả đáng xấu hổ, công phu Niêm Hoa Chỉ của tiểu tăng còn kém xa Huyền Độ đại sư của chùa Thiếu Lâm. Môn Đa La Diệp Chỉ này chắc còn sai sót nhiều.
Tiếp theo thân hình chuyển động rảo bước đi vòng quanh cái hòm gỗ dưới đất, mười ngón tay liên tiếp điểm ra, nắp hòm bay tung tóe, nhảy nhót liên tiếp, chỉ trong giây lát đã vỡ tan thành từng mảnh nhỏ.
Bọn Bảo Định Đế thấy chỉ lực của y phá tan chiếc rương gỗ thực không có gì làm lạ, có điều ngay cả xích sắt, bản đồng, dây đai, bản lề các loại kim thuộc cũng bị chỉ lực của y cắt nát vụn khiến cho ai nấy không khỏi kinh hoàng.
Cưu Ma Trí cười nói:
- Tiểu tăng trình diễn môn Đa La Diệp Chỉ có hơi bá đạo, công phu quả thực là nông cạn vụng về.
Nói xong đưa hai bàn tay thu vào bên trong tay áo. Đột nhiên một mảnh gỗ vỡ bỗng dưng nhảy tưng tưng, tưởng như có một người vô hình nào đó dùng gậy khuấy lên. Nhìn lại Cưu Ma Trí thấy mặt y vẫn ôn hòa rạng rỡ, tay áo không hề rung động, thì ra chỉ lực dấu trong tay áo lén bắn ra, không có một chút hình tích nào. Bản Tướng nhịn không nổi buột miệng khen:
- Vô Tướng Kiếp Chỉ quả là danh bất hư truyền. Bội phục! Bội phục!
Cưu Ma Trí khom lưng đáp:
- Đại sư quá khen. Mảnh gỗ kia bay tung lên đã là hữu tướng rồi. Nếu như muốn cho danh thực ăn khớp với nhau, luyện đến mức vô hình vô tướng, phải mất cả một đời người chưa chắc dã thành.
Bản Tướng đại sư nói:
- Trong quyển kỳ thư Mộ Dung tiên sinh để lại, quả có cách phá giải Vô Tướng Kiếp Chỉ ư?
Cưu Ma Trí đáp:
- Có chứ! Cách phá giải cũng giống như pháp danh của đại sư vậy thôi.
Bản Tướng trầm ngâm một hồi rồi nói:
- Ồ, lấy bản tướng phá vô tướng, thực là cao minh.
Bản Nhân, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham bốn người thấy Cưu Ma Trí thi diễn ba môn chỉ lực, ai nấy đều động lòng, biết rằng ba quyển kỳ thư này quả có chép bảy mươi hai loại tuyệt kỹ lừng danh thiên hạ của chùa Thiếu Lâm, liệu có đem phó bản đồ phổ của Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đánh đổi hay không quả là khó nghĩ nên ai nấy đều trù trừ.
Bản Nhân nói:
- Sư thúc, Minh Vương từ xa đến đây, quả là có lòng thành, chúng ta ứng tiếp ra sao, xin sư thúc chỉ thị.
Khô Vinh đại sư hỏi:
- Bản Nhân, chúng ta luyện công tập nghệ là để làm gì thế?
Bản Nhân phương trượng không ngờ sư thúc lại hỏi như thế, hơi ngạc nhiên rồi trả lời:
- Cốt là để hoằng dương đạo pháp, bảo vệ bờ cõi.
Khô Vinh đại sư hỏi thêm:
- Nếu như ngoại ma đến mà chúng ta đạo hạnh thô thiển không đủ sức dùng Phật pháp điểm hóa, không thể không ra tay hàng phục thì phải dùng công phu gì?
Bản Nhân đáp:
- Nếu bất đắc dĩ phải ra tay thì phải dùng Nhất Dương Chỉ.
Khô Vinh đại sư hỏi tiếp:
- Thế công phu tu tập Nhất Dương Chỉ của nhà ngươi đến được cảnh giới nào rồi?
Bản Nhân trán toát mồ hôi, trả lời:
- Đệ tử căn cơ dốt nát, chẳng tiến bộ được bao nhiêu nên chỉ mới đến được phẩm thứ tư.
Khô Vinh đại sư hỏi thêm:
- Theo ngươi thì Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý so với ba loại chỉ pháp Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, Vô Tướng Kiếp Chỉ của Thiếu Lâm đằng nào hơn, đằng nào kém?
Bản Nhân đáp:
- Chỉ pháp không có hơn kém, chỉ có công lực là cao thấp thôi.
Khô Vinh đại sư nói:
- Đúng lắm. Nếu như Nhất Dương Chỉ của chúng ta luyện đến đệ nhất phẩm thì sẽ thế nào?
Bản Nhân đáp:
- Đến mức đó thì uyên thâm khôn biết đâu mà lường, đệ tử không dám nói liều.
Khô Vinh đại sư nói:
- Ví như ngươi sống thêm một trăm năm nữa thì liệu luyện đến được phẩm thứ mấy?
Mồ hôi trán Bản Nhân rơi tong tỏng xuống đất, run run đáp:
- Đệ tử không biết.
Khô Vinh đại sư hỏi thêm:
- Liệu có đến được phẩm thứ nhất chăng?
Bản Nhân đáp:
- Chắc là không được.
Khô Vinh đại sư lặng thinh không nói thêm nữa. Bản Nhân nói:
- Sư thúc chỉ điểm rất đúng, đến như Nhất Dương Chỉ của chúng ta tu tập còn chưa xong, còn mong muốn có thêm võ học kỳ kinh của người ngoài làm gì? Minh Vương từ xa khổ nhọc đến đây, để tệ tự dọn đồ chay khoản đãi.
Câu nói đó rõ ràng có ý cự tuyệt lời yêu cầu của Đại Luân Minh Vương. Cưu Ma Trí thở dài một tiếng nói:
- Cũng chỉ vì tiểu tăng năm xưa nói một câu không ra gì, nếu không thì Mộ Dung tiên sinh dẫu sao cũng chết rồi, được hay không được cuốn Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này cũng thế thôi, có gì khác đâu? Hôm nay tiểu tăng cuồng vọng, nói một câu không biết trời cao đất dày là gì, kiếm pháp trong bộ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này, nếu quả thực tinh áo như Mộ Dung tiên sinh đã nói, e rằng quí tự tuy có đồ phổ thật thì cũng không ai có năng lực luyện cho thành. Mà dẫu có người luyện thành chăng nữa thì chưa chắc gì kiếm pháp đó đã thần diệu như Mộ Dung tiên sinh đã nghĩ.
Khô Vinh đại sư nói:
- Lão nạp có một điều không rõ muốn thỉnh cầu Minh Vương chỉ điểm.
Cưu Ma Trí đáp:
- Không dám.
Khô Vinh đại sư nói:
- Việc tệ tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, đến ngay cả tục gia đệ tử trong họ Đoàn cũng không hay biết, Mộ Dung tiên sinh từ đâu mà nghe được chuyện này?
Cưu Ma Trí đáp:
- Về võ học trong thiên hạ Mộ Dung tiên sinh cực kỳ uyên bác. Các bí kỹ võ công của các môn phái nhiều khi chính chưởng môn bản phái cũng không biết mà Mộ Dung tiên sinh cũng rõ như bàn tay. Cái thuật: “Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” chính là từ đó mà ra. Thế nhưng Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý ông ta vẫn không thể nào biết được, thành thử cả đời uất ức mang theo mối hận xuống tuyền đài.
Khô Vinh đại sư “Hừ” một tiếng không nói thêm nữa. Bọn Bảo Định Đế đều nghĩ thầm: “Nếu như y biết được những bí áo trong Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ e y sẽ quay lại dùng chính thuật này để tiêu diệt người trong họ Đoàn”.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Sư thúc chúng tôi hơn chục năm qua không gặp người ngoài, Minh Vương là cao tăng đương thế, nên sư thúc chúng tôi mới phá lệ tiếp kiến. Xin mời Minh Vương.
Nói xong đứng lên ý muốn tiễn khách ra về. Cưu Ma Trí không đứng lên, chậm rãi nói:
- Nếu Lục Mạch Thần Kiếm chỉ có hư danh không thực dụng, quí tự hà tất phải coi trọng nó như thế làm gì? Để phải tổn thương hòa khí giữa chùa Thiên Long và chùa Đại Luân, tổn thương đến bang giao hai nước Thổ Phồn và Đại Lý?
Bản Nhân sắc mặt hơi đổi, hậm hực hỏi lại:
- Lời của Minh Vương phải chăng muốn nói: Chùa Thiên Long nếu không chịu giao kinh ra, hai nước Thổ Phồn, Đại Lý sẽ có chuyện can qua?
Bảo Định Đế trước nay vẫn phải đưa trọng binh trú đóng nơi biên thùy tây bắc để phòng Thổ Phồn đem quân xâm lấn, nghe Cưu Ma Trí nói thế vội hết sức lắng tai nghe. Cưu Ma Trí đáp:
- Quốc vương nước Thổ Phồn chúng tôi vốn ái mộ phong cảnh, dân tình bên Đại Lý từ lâu, sớm có ý muốn cùng quốc chủ quí quốc đi săn chung một chuyến_, có điều tiểu tăng thấy rằng như thế ắt không ít người sẽ phải bỏ mạng, phạm vào lòng từ bi của Phật môn nên mấy năm nay vẫn phải hết sức ngăn trở.
Bọn Bản Nhân ai cũng biết lời nói y có ý uy hiếp. Y là quốc sư nước Thổ Phồn, trong nước từ vua trở xuống ai nấy đều sùng tín Phật pháp chẳng khác gì nước Đại Lý. Cưu Ma Trí lại được quốc vương tín nhiệm, hòa hay chiến phần lớn do một lời của y, nếu như chỉ vì một bộ kinh mà để sinh linh phải đồ thán thì thật không nên chút nào. Thổ Phồn mạnh mà Đại Lý yếu, nếu như chiến sự xảy ra quả thật rất đáng lo. Thế nhưng Cưu Ma Trí chỉ mới dọa một lời mà chùa Thiên Long đã hai tay dâng bộ bảo kinh trấn tự kia lên thì còn gì là thể thống nữa?
Khô Vinh đại sư nói:
- Nếu quả như Minh Vương không lấy bộ kinh này không được thì bọn lão nạp lẽ nào dám từ chối? Còn việc Minh Vương muốn đem bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm ra trao đổi, tệ tự không dám bái lãnh. Nếu như Minh Vương đã tinh thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm, lại thêm cả võ công chùa Đại Luân Đại Tuyết Sơn thì hẳn là đương thế không ai có thể địch nổi.
Cưu Ma Trí chắp hai tay nói:
- Ý của đại sư phải chăng muốn tiểu tăng phải ra tay phô cái xấu của mình?
Khô Vinh đại sư đáp:
- Minh Vương nói rằng Lục Mạch Thần Kiếm của tệ tự chỉ có hư danh, không thực dụng, vậy thì chúng tôi sẽ dùng Lục Mạch Thần Kiếm lãnh giáo cao chiêu của Minh Vương. Nếu quả đúng như lời Minh Vương nói, lộ kiếm pháp này chỉ rỗng tuếch không dùng được vào đâu thì có gì là quí báu? Lúc đó Minh Vương cứ việc đem kiếm kinh đi.
Cưu Ma Trí trong lòng kinh hãi thầm, năm xưa y đàm luận với Mộ Dung Bác về Lục Mạch Thần Kiếm biết sơ qua rằng đây là kiếm ý chỉ dùng toàn nội lực sử dụng kiếm khí vô hình, dù kiếm pháp thần kỳ cao minh bậc nào chăng nữa, dùng nội lực của một người sử dụng một lượt sáu mạch kiếm khí thì không ai có thể làm nổi, bây giờ nghe giọng của Khô Vinh đại sư thì dường như ông ta biết sử dụng mà tất cả chư tăng cũng đều biết môn kiếm pháp này. Chùa Thiên Long danh tiếng lừng lẫy hơn trăm năm qua, không thể coi thường được. Thần thái của y vốn dĩ cung kính, bây giờ liền hơi khom lưng nói:
- Nếu chư vị cao tăng hiển thị tuyệt nghệ thần kiếm cho tiểu tăng được mở mắt thật là may mắn xiết bao.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Minh Vương dùng loại binh khí gì, xin cứ việc đem ra.
Cưu Ma Trí vỗ tay một cái, một hán tử cao to từ bên ngoài bước vào. Y nói mấy câu tiếng Phiên người kia liền gật đầu vâng lệnh, đi ra ngoài lấy trong rương ra một bó nhang đưa lại cho Cưu Ma Trí rồi lại lui ra khỏi cửa.
Mọi người ai nấy lạ lùng, nghĩ thầm những cây hương này đụng vào là gẫy ngay không lẽ lại dùng làm binh khí được? Chỉ thấy tay trái cầm lên một cây nhang, tay phải vun gỗ vụn dưới đất nắn thành một cái gò cắm cây nhang lên. Cứ như thế y cắm sáu cây hương thành một dãy, mỗi cây cách nhau chừng một thước.
Cưu Ma Trí ngồi xếp bằng ở đằng sau mấy cây hương chừng năm sáu thước, đột nhiên xoa tay mấy cái rồi vung ra, đầu những cây hương lóe lên cùng cháy một lượt. Mọi người ai nấy kinh hãi thấy người này nội lực quả thật hùng mạnh, quả đã đến mức không ai dám nghĩ tới. Thế nhưng lập tức ai nấy ngửi thấy mùi lưu hoàng thoang thoảng, đoán chừng đầu những cây hương có trộn hỏa dược, Cưu Ma Trí không phải chỉ dùng nội lực mà đốt những cây nhang này, mà là dùng nội lực ma sát hỏa dược đầu hương để đốt. Việc đó tuy cũng khó khăn thật nhưng bọn Bảo Định Đế miễn cưỡng cũng thể làm được.
Sáu làn khói xanh biếc của sáu cây hương bốc lên thẳng tắp. Song chưởng Cưu Ma Trí ôm thành hình cầu, nội lực vận ra, sáu cụm khói từ từ ngả ra ngoài, nhắm vào Khô Vinh đại sư, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Nhân, Bản Tham và Bảo Định Đế sáu người. Thủ chưởng của y gọi là Hỏa Diễm Đao, tuy chỉ nhẹ nhàng hư vô không thể bắt nắm nhưng có thể giết người một cách vô hình, quả thực thật là ghê gớm. Lần này y chỉ muốn lấy được bộ kinh không cố ý giết người cho nên mới thắp sáu cây nhang để mọi người nhìn rõ đường đi của chưởng lực, trước là tỏ ra y cậy tài nên chẳng có gì sợ hãi, hai nữa có ý lấy lòng từ bi làm gốc, chỉ mong phân định võ học hơn thua chứ không phải nhằm sát hại người khác.
Sáu luồng khói biếc bay đến cách bọn Bản Nhân chừng ba thước thì dừng lại không chuyển động nữa. Cả bọn Bản Nhân ai nấy kinh hãi nghĩ thầm dùng nội lực đẩy khói đi thì không phải là khó khăn gì, nhưng nếu có thể hãm luồng khí đang tỏa ra kia giữa không gian thì phải nói là khó khăn gấp mười. Bản Tham đưa ngón tay út bên trái ra, một luồng khí từ huyệt Thiếu Xung phóng vào luồng khói biếc trước mặt. Luồng khói đó bị nội lực đẩy vào, bay vụt trở lại hướng Cưu Ma Trí, đến còn cách y chừng hai thước, Hỏa Diễm Đao của Cưu Ma Trí tăng lên nên làn khói không thể nào tiến xa hơn được nữa.
Cưu Ma Trí gật gù nói:
- Thật là danh bất hư truyền, Lục Mạch Thần Kiếm quả có lộ kiếm pháp Thiếu Trạch Kiếm.
Hai người thúc đẩy nội lực thêm mấy lần, Bản Tham đại sư biết rằng nếu mình chỉ ngồi yên không động đậy thì khó lòng mà phát huy được uy lực của kiếm pháp nên đứng lên, đi xéo qua bên trái ba bước, nội lực theo ngón tay út bên trái từ trái phóng lệch qua phải. Cưu Ma Trí vung tay trái ra chặn ngay lại.
Ngón tay giữa của Bản Quan đại sư đột nhiên bật lên, Trung Xung Kiếm phóng thẳng về trước. Cưu Ma Trí vung tay đỡ lại, quát lên:
- Giỏi thật! Đây là Trung Xung kiếm pháp.
Y lấy một địch hai nhưng không thấy khiếp sợ chút nào. Đoàn Dự ngồi đằng trước Khô Vinh đại sư, nghiêng người ngó ra, chăm chú xem cuộc đấu kiếm nghìn năm một thuở này. Tuy chàng không biết võ công nhưng cũng biết mấy vị cao tăng kia đang dùng nội lực để đấu kiếm còn hung hiểm và ghê gớm gấp mấy việc dùng binh khí đánh với nhau. Cũng may Cưu Ma Trí đốt sáu nén hương nên chàng có thể nhìn theo làn khói xanh di động mà xem được kiếm chiêu đao pháp của ba người.
Chàng coi được độ mươi chiêu trong bụng chợt nghĩ: “À, đúng rồi! Trung Xung kiếm pháp của Bản Quan đại sư giống hệt như hình vẽ không khác chút nào”. Chàng len lén mở đồ phổ Trung Xung kiếm pháp ra coi, theo luồng khói xanh đang di động, đối chiếu với kiếm chiêu vẽ trên đó, coi kỹ càng rồi không còn chỗ nào khó khăn nan giải nữa. Chàng quay qua xem Thiếu Trạch Kiếm của Bản Tham đại sư thì cũng như thế, chỉ khác nhau ở chỗ Trung Xung Kiếm mở ra thu vào bao trùm một khoảng lớn, khí thế thật hùng hậu còn Thiếu Trạch Kiếm thì chợt đến chợt đi biến hóa thật là tinh vi.
Bản Nhân phương trượng thấy sư huynh và sư đệ liên thủ cũng không thắng thế chút nào nghĩ thầm bên mình luyện kiếm chưa thành thục, kiếm chiêu chẳng mấy chốc sẽ dùng hết, cả sáu người ra tay càng sớm càng tốt, gã Đại Luân Minh Vương này thông minh tuyệt trần, hẳn là y đang quan sát kiếm pháp của Bản Quan, Bản Tham hai người, chưa dùng toàn lực để tấn công phòng ngự, nên ông bèn nói:
- Bản Tướng, Bản Trần hai vị sư đệ, tất cả chúng mình cùng ra tay đi thôi.
Ngón tay trỏ búng ra, Thương Dương kiếm pháp huy động, kế đó Thiếu Xung Kiếm của Bản Tướng đại sư và Quan Xung Kiếm của Bảo Định Đế, ba luồng kiếm khí cùng nhắm vào ba làn khói xanh tấn công.
Đoàn Dự nhìn Thiếu Xung Kiếm một lát rồi lại nhìn Thương Dương Kiếm, xem bên đông một chiêu, quay qua tây xem một chiêu đối chiếu với đồ phổ tuy đã rõ nhưng dẫu sao cũng hỗn loạn chẳng thành đầu đuôi gì. Chàng còn đang chăm chú xem đồ phổ Thiếu Xung Kiếm, bỗng thấy một ngón tay khô gầy để lên bức hình viết xuống: “Chỉ học một đồ hình, học xong hãy đổi qua bức khác”. Đoàn Dự nghĩ ra, biết ngay Khô Vinh đại sư chỉ điểm cho mình, quay đầu lại nhìn ông mỉm cười có ý cảm tạ.
Chàng vừa nhìn ông, nụ cười trên môi tắt ngóm, thấy khuôn mặt ông ta hết sức lạ kỳ, một nửa bên trái hồng hào tươi tắn, da dẻ trơn tru chẳng khác gì một đứa trẻ, còn nửa bên phải lại là xương khô, ngoài làn da vàng ệch ra không còn một chút thịt nào, các đầu xương lòi ra chẳng khác gì một nửa cái đầu lâu.
Chàng kinh hãi vội vàng quay mặt đi, tim đập thình thình, biết rằng vị thái sư bá này tu tập Khô Vinh thiền công đã thành tựu, có điều khuôn mặt bên héo bên tươi này ghê gớm quá, chàng không thể nào định tâm được.
Chàng thấy ngón tay Khô Vinh đại sư viết tiếp trên tấm lụa:
“Dịp may chớ bỏ lỡ, hãy chăm chú xem kiếm pháp. Tự mình xem, tự mình học, để khỏi vi phạm lời dạy của tổ tiên”
Đoàn Dự hiểu rõ ngay: “Khô Vinh thái sư bá trước đây đã có nói với bá phụ rằng, Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia đệ tử họ Đoàn, đợi đến khi bác ta cắt tóc đi tu rồi mới chịu truyền thụ. Ông ấy viết là “tự quan tự học, bất vi tổ huấn” ắt là di huấn của tổ tiên không cấm con cháu tục gia họ Đoàn vô sư tự học. Thái sư bá bảo ta “lương cơ mạc thất, ngưng thần quan kiếm”, ắt là bảo ta tự mình xem, tự mình học rồi.
Chàng gật đầu, quan sát kỹ càng Quan Xung kiếm pháp của bá phụ, đến lúc hiểu rõ ràng mới cứ như thế mà xem qua hai đường kiếm pháp Thiếu Xung, Thương Dương. Phàm năm ngón tay của con người, ngón tay vô danh là ngón vụng về nhất, còn ngón tay trỏ linh hoạt hơn cả, thành thử Quan Xung Kiếm lấy vụng về chậm chạp để thủ thắng, còn Thương Dương Kiếm thì lấy xảo diệu hoạt bát để địch thủ không mò ra được. Thiếu Xung kiếm phá với Thiếu Trạch kiếm pháp đều dùng ngón tay út để vận kình sử dụng, nhưng một đằng là bên tay phải, một đằng là bên tay trái, kiếm pháp phân biệt ra khéo léo, vụng về, nhanh nhẹn, chậm rãi. Thế nhưng “vụng” không phải không hay, còn “chậm” cũng không vì thế mà giảm uy lực, chỉ phân biệt một bên là kỳ, một bên là chính_ mà thôi.
Đoàn Dự vốn chỉ vì lòng hiếu kỳ, theo dõi những làn khói xanh qua lại, đem đối chiếu với những sợi chỉ trên đồ hình, chẳng khác gì xem vẽ chữ bằng đèn_ để đoán chơi nhưng sau khi Khô Vinh đại sư dặn dò rồi chàng bèn chuyên tâm xem cho thật kỹ. Đến khi ba lộ kiếm pháp đó đã xem rõ cả rồi thì Bản Tham và Bản Quan hai người đã sử dụng hết một lượt bây giờ quay lại lần thứ hai. Đoàn Dự không còn phải tham chiếu đồ phổ nữa, chỉ chăm chăm nhìn vào làn khói biếc đem ấn chứng với những lộ kiếm pháp đã thuộc nằm lòng, mới thấy là những đường chỉ trên đồ hình là đường dây chết, còn luồng khói biếc kia biến hóa vô cùng phong phú phức tạp gấp bội những hình vẽ.
Chàng coi thêm một hồi nữa, kiếm pháp của Bản Nhân, Bản Tướng, và Bảo Định Đế ba người cũng đã sử dụng hết. Bản Tướng đại ư búng ngón tay út, sử dụng chiêu Phân Hoa Phất Liễu quay trở lại từ đầu. Cưu Ma Trí mỉm cười gật gù, tiếp theo Bản Nhân và Bảo Định Đế cũng sử dụng những kiếm chiêu biến hóa ra từ các chiêu cũ. Ngay lúc đó bỗng nghe thấy Cưu Ma Trí phát xuất những tiếng vù vù, uy lực của Hỏa Diễm Đao đột nhiên cực mạnh, đẩy ngược kiếm chiêu của năm người dồn trở lại.
Thì ra lúc đầu Cưu Ma Trí chỉ giữ thế thủ cốt để xem hết các chiêu thế trong Lục Mạch Thần Kiếm, nay bắt đầu phản kích chuyển từ thủ sang công, năm làn khói biếc xoay chuyển quay quần thật là linh động. Riêng làn khói thứ sáu vẫn đứng sững cách Khô Vinh đại sư chừng ba thước, ổn định không động đậy. Khô Vinh đại sư có ý muốn biết xem y toan tính những gì cốt để xem y giữ thế năm luồng lực đạo tấn công, một luồng giữ nguyên kia kéo dài được bao lâu, thành ra trước sau vẫn không ra tay công kích. Quả nhiên Cưu Ma Trí muốn giữ cho luồng lực đạo thứ sáu kia đứng yên như vậy hồi lâu hao tổn nội lực khá nhiều, nên làn khói biếc cừ từ từ từng tấc một tiến vào sau ót Khô Vinh đại sư.
Đoàn Dự kinh hãi nói:
- Thái sư bá, làn khói tấn công tới rồi.
Khô Vinh đại sư gật đầu mở bản đồ phổ Thiếu Thương Kiếm ra, để trước mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự thấy bản vẽ Thiếu Thương Kiếm này thật chẳng khác gì một bức tranh thủy mặc vẽ theo lối “vẩy mực”_, nét tung hoành mạnh mẽ chỉ vài đường đã tỏ ra kiếm lộ hùng hồn xem ra chẳng khác gì thế gió bão mưa giông, long trời lở đất. Đoàn Dự xem kiếm phổ nhưng trong bụng vẫn lo lắng làn khói đang tấn công vào đằng sau Khô Vinh đại sư vừa quay đầu lại thấy làn khói chỉ còn cách đầu ông chừng vài ba tấc hoảng hốt kêu lên:
- Coi chừng!
Khô Vinh đại sư phất ngược tay lại, hai ngón tay cái cùng búng ra, hai tiếng vụt vụt chia ra tấn công vào ngực bên phải và vai bên trái Cưu Ma Trí. Ông không thèm đỡ đòn tấn công của kẻ địch mà lại đưa ra hai luồng kỳ binh tập kích bất ngờ. Ông cho rằng lực đạo Hỏa Diễm Đao của Cưu Ma Trí dùng nội lực chầm chậm tiến vào có muốn đả thương mình cũng phải mất một thời gian, thành ra nếu mình ra tay sau mà tới trước, ắt là khiến y giở tay không kịp.
Cưu Ma Trí tính toán chu đáo, đã giữ sẵn một luồng chưởng lực tại trước ngực, nhưng y chỉ mới tính tới một luồng Thiếu Thương Kiếm tấn công tới, không ngờ Khô Vinh đại sư lại dùng cả hai luồng kiếm tấn công một lượt, chia ra tấn công hai nơi khác nhau. Bàn tay Cưu Ma Trí giơ lên gạt chỉ chặn được đường kiếm tấn công vào trên ngực, tiếp theo chân phải nhún một cái, nhảy vọt về phía sau. Tuy y nhảy đã nhanh nhưng vẫn không thể nhanh bằng kiếm khí tới chẳng khác gì ánh chớp, nghe soẹt một tiếng vai trái đã rách một mảnh, máu tươi tươm ra. Song chỉ của Khô Vinh đại sư lập tức quay ngoắt lại, kiếm khí rút ngược về, sáu nén hương đều gãy ngang. Bọn Bản Nhân, Bảo Định Đế cũng thu kiếm lại. Những người đó chiến đấu đã lâu không nên công cán gì, trong bụng đang lo thầm bây giờ mới thở phào một cái.
Cưu Ma Trí rảo bước đi vào mỉm cười nói:
- Thần công của Khô Vinh đại sư quả là không phải bình thường, tiểu tăng hết sức bội phục. Pho Lục Mạch Thần Kiếm kia quả thật chỉ có hư danh.
Bản Nhân phương trượng hỏi lại:
- Tại sao lại chỉ có hư danh, xin được thỉnh giáo.
Cưu Ma Trí đáp:
- Năm xưa Mộ Dung tiên sinh hâm mộ kính ngưỡng là kiếm pháp Lục Mạch Thần Kiếm chứ không phải là kiếm trận Lục Mạch Thần Kiếm. Pho kiếm trận này của chùa Thiên Long quả thực uy lực rất lớn, thế nhưng xem ra cũng chỉ ngang ngửa với La Hán kiếm trận của chùa Thiếu Lâm hay Hỗn Độn kiếm trận của phái Côn Lôn, không thể gọi là kiếm pháp thiên hạ vô song được.
Y chỉ nói là “kiếm trận” mà không phải là “kiếm pháp” là chỉ trích đối phương lấy sáu người bày ra thành trận thế cùng tấn công, chứ không phải một người sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm như y đã dùng Hỏa Diễm Đao.
Bản Nhân phương trượng nhận thấy lời nói của y quả có lý không sao trả lời được. Thế nhưng Bản Tham đại sư đã cười khẩy:
- Kiếm pháp cũng vậy mà kiếm trận thì cũng thế thôi. Trong cuộc tỉ đao luận kiếm này, Minh Vương thắng hay chùa Thiên Long chúng tôi thắng?
Cưu Ma Trí không trả lời, nhắm mắt ngẫm nghĩ, độ thời gian uống một chén trà, mở mắt ra nói:
- Trận đầu quí tự chiếm được thượng phong nhưng trận thứ hai tiểu tăng xem ra có bề thắng thế.
Bản Nhân kinh hãi hỏi lại:
- Minh Vương còn muốn tỉ thí thêm một lần nữa hay sao?
Cưu Ma Trí đáp:
- Đại trượng phu nói ra phải giữ lời, tiểu tăng đã đáp lời Mộ Dung tiên sinh không lẽ thấy khó thì chùn bước?
Bản Nhân nói:
- Thế nào mà Minh Vương bảo là có cơ thắng thế?
Cưu Ma Trí song chưởng từ từ tung ra, mỉm cười nói:
- Các vị võ học uyên thâm không lẽ không đoán ra? Xin tiếp chiêu đây.
Cả sáu người Khô Vinh đại sư, Bản Nhân cùng bọn Bảo Định Đế người nào cũng thấy có hai luồng lực đạo không biết từ đâu tấn công tới. Cả bọn biết rằng không thể dùng Lục Mạch Thần Kiếm ra chống đỡ, ai nấy song chưởng tống ra, đỡ hai luồng chưởng lực kia, chỉ riêng Khô Vinh đại sư vẫn hai ngón tay cái búng ra, dùng Thiếu Thương Kiếm đón tiếp nội kình của đối phương.
Cưu Ma Trí đẩy hai luồng lực đạo ra rồi lập tức thu chiêu nói:
- Xin lỗi nhé!
Bản Nhân và Bản Quan hai người đưa mắt nhìn nhau, đều hội ý: “Một chưởng của y cùng một lượt sinh ra mấy luồng lực đạo, Thiếu Thương Kiếm của Khô Vinh sư thúc dẫu có phân ra hợp kích y vẫn có thể chống đỡ như thường. Bọn mình đành phải bỏ kiếm dùng chưởng, Lục Mạch Thần Kiếm quả là không bằng Hỏa Diễm Đao của y”.
Ngay lúc đó, bỗng thấy trước mặt Khô Vinh đại sư mù mịt bốc lên, một luồng khói đen chia ra thành bốn nhánh tấn công Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vốn cũng khiếp sợ nhà sư già từ đầu chí cuối quay mặt vào tường không nhìn trở lại này, bây giờ thấy khói đen tấn công tới không đoán được đối phương định làm gì, chỉ đành sử dụng Hỏa Diễm Đao chia ra bốn phía chống đỡ. Y không dám phản kích, một mặt phòng bị bọn Bản Nhân xông lên tấn công, một mặt lặng yên thủ thế xem động tĩnh để xem Khô Vinh đại sư còn ngón gì lợi hại tiếp theo.
Chỉ thấy khói đen càng lúc càng dày đặc, thế công càng lúc càng mạnh mẽ. Cưu Ma Trí trong bụng lạ lùng: “Ông ta dùng toàn lực tấn công như thế nhưng gió mạnh không qua buổi sáng, mưa lớn không đổ trọn đêm, làm sao có thể chịu đựng lâu được? Khô Vinh đại sư là cao tăng đời nay, sao lại dùng phương thức gấp rút cương mãnh như thế để đối địch?”.
Xem chừng ông ta không phải là người kém cỏi như thế, ắt bên trong có ngụy kế gì, y bèn thủ thế thật chặt chẽ, trong lòng giữ thật bình tĩnh để tiện tùy cơ ứng biến. Chỉ trong chốc lát, bốn luồng khói đen một chia thành hai, hai chia thành bốn, bốn luồng khói đen chia thành mười sáu đường, bốn phương tám hướng tấn công thẳng vào Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí nghĩ thầm: “Cung đã giương hết sức rồi có đáng gì đâu?”. Y thi triển Hỏa Diễm đao pháp chặng tất cả các luồng khói lại. Hai bên còn đang ra sức mười sáu luồng khói đen bỗng tan ra, trong căn phòng chỉ giây lát khói bay mù mịt. Cưu Ma Trí không hề sợ hãi vận dụng chân lực hộ vệ toàn thân.
Khói từ từ nhạt dần, trong làn không khí mông lung chỉ thấy năm nhà sư cùng quì cả xuống, thần tình trang nghiêm, trong ánh mắt của Bản Quan và Bản Tham đầy vẻ bi phẫn. Cưu Ma Trí còn đang ngạc nhiên, lập tức hiểu ra: “Hỏng rồi! Nhà sư già Khô Vinh kia biết rằng không địch nổi ta nên đem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm đốt đi”.
Y đoán không sai, Khô Vinh đại sư dùng nội lực Nhất Dương Chỉ dồn ra đốt cháy Lục Mạch Thần Kiếm phổ, sợ Cưu Ma Trí ra tay sang đoạt hay ngăn trở nên thúc đẩy khói ra tấn công y để cho y phải hết sức chống đỡ đến khi khói tan hết rồi thì đồ phổ cũng đã cháy tiêu hết cả.
Cả năm nhà sư đều là những cao thủ tinh thông Nhất Dương Chỉ nên vừa nhìn thấy khói đen đã biết ngay nguyên do, nghĩ thầm sư thúc thà làm ngọc vỡ chứ không chịu để ngói lành, cam tâm hủy bỏ món trấn tự chi bảo không để rơi vào tay địch thủ. Thế nhưng sáu người chia ra mỗi người nhớ một phần kiếm pháp, đợi khi cường địch đi khỏi rồi, chỉ cần ngồi viết lại là xong, có điều những đồ phổ tổ truyền đó đành phải hủy mất.
Thế nhưng từ nay chùa Thiên Long và Đại Luân Minh Vương hai bên kết oán thật sâu không dễ gì mà bỏ qua cho được.
Cưu Ma Trí vừa kinh hãi vừa tức tối, y xưa nay vẫn tự phụ mưu trí hơn người, hôm nay hai lần liên tiếp thua dưới ta Khô Vinh đại sư, Lục Mạch Thần Kiếm Kinh cũng đã bị hủy mất rồi, chuyến đi này gây thêm một mối thù lớn mà lại xôi hỏng bỏng không. Y đứng lên chắp tay nói:
- Khô Vinh đại sư sao lại cương cường đến thế? Thà gãy chứ không chịu cong, quả là cao cả. Bảo kinh của quí tự vì tiểu tăng mà phải hủy, trong lòng quả thật áy náy không an, có điều kinh này một người không ai có thể luyện thành, hủy hay không hủy cũng không có gì khác biệt lắm. Vậy xin cáo từ.
Y hơi chuyển mình, không đợi Khô Vinh và bọn Bản Nhân trả lời, đột nhiên giơ tay nắm lấy mạch môn Bảo Định Đế nói:
- Quốc chủ tệ quốc ngưỡng mộ phong phạm Bảo Định Đế đã lâu, vẫn thường mong mỏi gặp được một lần, vậy xin mời bệ hạ rời gót sang chơi nước Thổ Phồn một phen.
Biến cố đó xảy ra thật bất ngờ, mọi người ai nấy giật mình kinh hãi. Gã phiên tăng kia đột nhiên tấn công, tuy Bảo Định Đế võ công cao cường nhưng cũng không trở tay kịp, bị y nắm phải hai huyệt Liệt Khuyết và Thiên Lịch trên cổ tay. Bảo Định Đế vội vận nội lực giẫy ra nhưng sáu bảy lần vẫn không thoát được. Bọn Bản Nhân thấy Cưu Ma Trí ra tay như thế thật là hèn hạ, mất đi thân phận của một cao thủ tuyệt đính nhưng chỉ đành phẫn nộ mà không còn biết tính sao, Bảo Định Đế yếu huyệt bị y chế ngự rồi lúc nào cũng có thể bị y giết chết.
Khô Vinh đại sư cười ha hả nói:
- Trước kia y là Bảo Định Đế, bây giờ đã bỏ ngôi xuất gia, pháp danh Bản Trần. Bản Trần, nếu như quốc vương nước Thổ Phồn muốn gặp ngươi, ngươi cứ đi một chuyến cũng không sao.
Bảo Định Đế không biết cách nào hơn chỉ đành đáp lời:
- Vâng!
Ông biết được dụng ý của Khô Vinh đại sư, Cưu Ma Trí tưởng mình là vua của một nước, bắt được mới là một món hàng có giá, còn như nếu đã thoái vị đi tu, chẳng qua chỉ là bắt được một nhà sư của chùa Thiên Long mà thôi, thật chẳng đáng gì có thể y sẽ thả ra không chừng.
Từ khi Cưu Ma Trí vừa bước vào Mâu Ni Đường, Bảo Định Đế không nói một lời, cũng không để lộ chút gì khác lạ, nhưng nếu muốn sử dụng pho Lục Mạch Thần Kiếm, mặc dù chỉ là một trong sáu mạch kiếm khí, cũng phải là cao thủ võ học đệ nhất có công phu tu tập cực kỳ cao minh. Những cao thủ bậc nhất đó trong võ lâm ai nấy đều biết cả. Cưu Ma Trí phen này ra đi đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng, họ Đoàn Đại Lý và các nhà sư chùa Thiên Long hình mạo tuổi tác thế nào đều đã thăm dò chu đáo, ngay cả tính nết tập quán, võ công bậc nào mười phần y cũng biết được đến tám chín.
Y đã biết trong chùa Thiên Long ngoài Khô Vinh đại sư ra chỉ có bốn vị cao thủ, bây giờ tự nhiên thêm vào một người là Bản Trần, tên đó y chưa từng nghe tới nhưng nội lực hùng mạnh không kém các nhà sư thuộc hàng chữ Bản chút nào. Y thấy ông thần thài ung dung uy nghiêm, khí tượng đầy vẻ phú quí tôn vinh nên đoán ngay là Bảo Định Đế.
Đến khi nghe Khô Vinh đại sư nói ông ta đã bỏ ngôi xuất gia, Cưu Ma Trí bỗng thấy chột dạ: “Ta từng nghe họ Đoàn Đại Lý các đời vua thường hay thoái vị đi tu, Bảo Định Đế xuất gia ở chùa Thiên Long thật cũng không có gì là lạ. Thế nhưng hoàng đế rời ngôi ra đi ắt có nghi lễ thật lớn trên toàn quốc, cúng dường chư tăng lễ Phật, trùng tu tháp miếu, ồn ào lên một thời gian chứ lẽ đâu không ai hay biết như thế. Nước Thổ Phồn ta nghe được tin này thể nào chả sai sứ sang chúc mừng tân quân đăng vị. Việc này hẳn là có gì man trá”.
Y bèn nói:
- Bảo Định Đế xuất gia cũng tốt, mà không xuất gia cũng tốt, cũng xin mời sang chơi Thổ Phồn một chuyến, triều kiến quốc vương tệ quốc.
Nói xong y nắm tay Bảo Định Đế lập tức rảo bước đi ra khỏi cửa. Bản Nhân quát lớn:
- Khoan đã!
Ông chuyển mình một cái, cùng Bản Quan hai người chặn ngay trước cửa. Cưu Ma Trí nói:
- Tiểu tăng không có ý gia hại Bảo Định Đế hoàng gia, thế nhưng nếu các vị bức bách thì đành phải vậy thôi.
Tay phải y đưa hờ ra để ngay giữa lưng Bảo Định Đế. Chưởng lực Hỏa Diễm Đao của y dẫu kiên cố đến đâu cũng phá vỡ được, Bảo Định Đế mạch môn đã bị nắm chặt, đành phải để y làm gì thì làm không thể nào kháng cự được. Nếu chúng tăng chùa Thiên Long hợp lực tấn công y, một là ném chuột sợ vỡ đồ, hai là chưa chắc đã thắng nhưng cả bọn Bản Nhân đều bối rối, Bảo Định Đế là vua của nước Đại Lý làm sao có thể để cho kẻ địch hiếp chế như thế được?
Cưu Ma Trí lớn tiếng nói:
- Đã từng nghe đại danh của chư cao tăng chùa Thiên Long, ngờ đâu chỉ mới một chuyện nhỏ nhặt, mà đã dùng dằng dúng dắng như đàn bà con trẻ là sao? Xin nhường đường thôi!
Đoàn Dự thấy bá phụ bị y bắt giữ, trong bụng rất lấy làm lo lắng, mới đầu còn tưởng bá phụ võ công cao cường, đâu có sợ gì y, chẳng qua tạm thời nhẫn nại lúc gặp thời cơ sẽ có cách thoát thân. Ngờ đâu càng lúc càng cảm thấy không xong, lời ăn tiếng nói cùng vẻ mặt Cưu Ma Trí càng lúc càng thêm ngạo nghễ còn bọn Bản Quan, Bản Nhân mặt mày lo lắng phẫn nộ đành chịu không làm gì được. Đến khi Cưu Ma Trí cầm tay Bảo Định Đế, từng bước từng bước đi ra cửa, Đoàn Dự hoảng hốt không còn suy nghĩ gì thêm lớn tiếng quát:
- Này, ngươi có mau thả bá phụ ta ra không?
Chàng từ trước mặt Khô Vinh đại sư chạy ra. Cưu Ma Trí vốn đã thấy trước mặt Khô Vinh đại sư có một người ngồi đó nhưng không đoán ra được là người nào, cũng chẳng hiểu ngồi đó làm gì bây giờ thấy chàng xông ra liền quay lại hỏi:
- Tôn giá là ai?
Đoàn Dự đáp:
- Đừng hỏi ta là ai, mau thả bá phụ ta ra rồi hãy tính.
Chàng giơ tay nắm lấy tay trái Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, cháu đừng lo cho ta làm gì, mau mau bảo cha cháu đăng cơ, tiếp thừa ngôi báu. Còn ta nay chỉ là một lão tăng hạc nội mây ngàn, có là gì nữa đâu?
Đoàn Dự cố sức nắm lấy tay Bảo Định Đế kêu lên:
- Có mau bỏ bá phụ ta ra không nào?
Huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái của chàng vừa chạm vào huyệt đạo trên cổ tay Bảo Định Đế, mới sử lực Bảo Định Đế toàn thân liền chấn động, cảm thấy nội lực ào ạt tuôn ra. Ngay lúc đó, Cưu Ma Trí cũng thấy nội lực của mình bị hút ra ngoài, vẻ mặt liền biến đổi nghĩ thầm: “Họ Đoàn Đại Lý sao lại học được Hóa Công đại pháp thế này?”. Y vội vàng ngưng khí vận lực để kháng lại môn tà công âm độc đó.
Bảo Định Đế cũng cảm thấy hai cánh tay có một luồng nội lực tuôn ra ngoài, lập tức sử dụng phương pháp “mượn sức đánh sức” đưa hai luồng đó cùng đi vào một nơi. Nơi hai luồng nội lực đó gặp nhau chính là bản thân ông còn hai tay không hề chịu nên chỉ vùng một cái đã thoát khỏi tay Cưu Ma Trí, rồi nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy vụt về sau, trong bụng kêu thầm: “Thật là hổ thẹn, hôm nay ta phải nhờ Dự nhi cứu cho!”.
Còn Cưu Ma Trí kinh hãi không đâu kể xiết, nghĩ thầm: “Trong giới võ lâm Trung Thổ sao lại có một đại cao thủ mà ta hoàn toàn không hay biết? Người này tuổi còn trẻ, chỉ chừng trên dưới hai mươi sao lại có công lực mạnh đến thế? Y gọi Bảo Định Đế là bá phụ, phải chăng là vai vế dưới một mức trong họ Đoàn Đại Lý?”.
Y chậm rãi gật đầu nói:
- Tiểu tăng vẫn tưởng họ Đoàn Đại Lý chỉ chuyên tập luyện nghệ thuật tổ truyền, không để mắt tới bên ngoài, nào có biết đâu hậu bối anh hiền lại kết giao với Tinh Tú lão nhân, nghiên tập kỳ môn võ học Hóa Công đại pháp, thật là kỳ lạ, thật là kỳ lạ.
Y tuy uyên bác khôn ngoan nhưng cũng nhầm Bắc Minh thần công của Đoàn Dự là Hóa Công đại pháp, có điều tự trọng thân phận mình nên không đưa lời thương tổn người khác thành ra đổi Tinh Tú lão quái thành “lão nhân”. Người trong võ lâm đều coi Hóa Công đại pháp là một công phu yêu quái tà thuật, y lại đổi thành “kỳ môn võ học”. Y vừa rồi đụng chạm với Đoàn Dự thấy chàng nội lực không kém gì Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu không thể nào là đệ tử truyền nhân của ông ta được thành thử mới dùng hai chữ “kết giao”.
Bảo Định Đế cười khẩy đáp:
- Chúng tôi từ lâu ngưỡng mộ Đại Luân Minh Vương túc trí viên thông, hiểu biết phi phàm sao lại buông lời nói năng nhăng cuội như thế? Tinh Tú lão quái chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa, con cháu họ Đoàn chúng ta làm gì có liên quan đến y?
Cưu Ma Trí ngạc nhiên, mặt hơi hổ thẹn, Bảo Định Đế dùng chữ “chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa” chính là chỉ trích hành vi của y mới rồi. Đoàn Dự nói:
- Đại Luân Minh Vương từ xa đến đây là khách, chùa Thiên Long lấy lễ đãi đằng sao ông lại dám phạm vào bá phụ của ta? Chẳng qua chúng tôi xem hai bên đều là đệ tử cửa Phật, cho nên mới xử sự khách khí, ông lại giở trò ngang ngược. Người xuất gia có đâu lại không giữ thanh qui như Minh Vương?
Mọi người nghe Đoàn Dự dùng đại nghĩa trách mắng, trong bụng ai cũng khen thầm nhưng cũng chăm chú đề phòng chỉ sợ Cưu Ma Trí xấu hổ mà nổi giận đột nhiên ra tay gia hại Đoàn Dự.
Ngờ đâu Cưu Ma Trí vẫn thản nhiên như không, ôn tồn nói:
- Hôm nay được biết tới bậc cao hiền, thật may mắn biết mấy. Vậy xin dạy cho vài chiêu để cho tiểu tăng được phần ích lợi.
Đoàn Dự đáp:
- Ta không biết võ công, trước nay chưa từng học bao giờ.
Cưu Ma Trí cười nói:
- Cao minh thật! Thôi tiểu tăng cáo từ.
Y hơi nghiêng người một chút, tay áo tung ra, bàn tay từ bên trong đánh ra, bốn chiêu Hỏa Diễm Đao cùng chém vào Đoàn Dự. Chiêu số tối lợi hại của địch đánh ra nhưng Đoàn Dự nào có hay biết gì. Bảo Định Đế và Bản Tướng song chỉ cùng tung ra, đỡ lấy bốn chiêu Hỏa Diễm Đao của y, đụng phải nội lực cực kỳ hùng mạnh của Cưu Ma Trí hai người đều lảo đảo. Bản Tướng “Oa” lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi.
Đoàn Dự thấy Bản Tướng thổ huyết bấy giờ mới hay là Cưu Ma Trí đánh lén mình, trong bụng tức quá chỉ ngay mặt y mà chửi:
- Ngươi là đồ phiên tăng không biết phải quấy là gì!
Ngón tay trỏ tay phải của chàng vừa vung ra, tâm khí tương thông, tự nhiên sử dụng một chiêu trong Thương Dương kiếm pháp. Chàng nội lực hùng mạnh trên đời ít có ai bằng, lúc nãy ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư xem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm và bảy nhà sư dùng vô hình đao kiếm đấu với nhau, ngón tay vừa chỉ ra có ngờ đâu lại trùng hợp với đồ phổ. Chỉ nghe soẹt một tiếng, một luồng nội kình cực kỳ hồn hậu bắn vọt vào người Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí kinh hãi, vội giơ chưởng lên dùng Hỏa Diễm Đao chặn lại. Đoàn Dự vừa ra tay không những Cưu Ma Trí hết sức kinh hãi mà cả Khô Vinh đại sư cùng bọn Bản Nhân cũng thật ngoài dự liệu, trong đó Bảo Định Đế và chính Đoàn Dự ngạc nhiên hơn cả. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Việc này quả thực quái đản, ta tiện tay chỉ ra sao lão hòa thượng kia phải hết sức chăm chú chống đỡ là sao? Đúng rồi! Chắc là ta ra tay rất giống nên gã phiên tăng này lại tưởng mình biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm. Ha ha, nếu đã thế, ta phải dọa y một phen mới được”.
Chàng bèn lớn tiếng nói:
- Công phu Thương Dương Kiếm đã thấm vào đâu! Để ta ra mấy chiêu Trung Xung Kiếm cho ngươi biết tay.
Chàng vừa nói vừa chỉ ngón tay ra. Thế nhưng tuy thủ pháp có đúng thật nhưng lần này không có nội lực đi theo, chỉ điểm hờ ra thôi không hiệu quả chút nào. Cưu Ma Trí thấy ngón tay giữa của chàng đâm ra, lập tức thủ thế chặn lại, ngờ đâu chỉ của đối phương không có một chút kình lực nào, lại tưởng chàng hư hư thực thực, còn ẩn chiêu số tiếp theo. Đến khi y thấy chàng điểm thêm một chỉ nữa không thấy tăm hơi gì cả, trong bụng mừng thầm: “Ta đã nghe trên đời này làm gì có người nào vừa biết sử dụng Thương Dương Kiếm, lại biết cả Trung Xung Kiếm? Quả nhiên tên tiểu tử này chỉ hư trương thanh thế để dọa người làm mình sợ hết hồn”.
Lần này y đến chùa Thiên Long bị mấy phen thất thế nghĩ thầm nếu không tỏ chút tài năng thì Đại Luân Minh Vương sẽ thật là bẽ mặt, liền giơ tả chưởng chém trái phải luôn mấy cái, để ngăn chặng Bảo Định Đế và những người kia ra tay cứu viện, kế đó chưởng phải chém thẳng vào vai phải của Đoàn Dự.
Chiêu Bạch Hồng Quán Nhật_ là một chiêu tinh diệu trong Hỏa Diễm đao pháp, một đao đã dường như chặt đứt vai của Đoàn Dự. Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Tham cả bọn đồng loạt giơ chỉ điểm vào Cưu Ma Trí đồng thời hoảng hốt kêu lên:
- Coi chừng!
Ba người xuất chiêu đều dùng võ công thượng thừa để kẻ địch không thể không quay về tự cứu, ngờ đâu Cưu Ma Trí đã dùng nội kình bao quanh những điểm yếu hại toàn thân, đao của y không thu về, vẫn tiếp tục chém xuống. Đoàn Dự nghe Bảo Định Đế và những nhà sư lên tiếng cảnh cáo biết là không ổn, song chưởng cùng hết sức tung ra, trong bụng kinh hoàng, chân khí tự nhiên vọt ra, tay phải dùng Thiếu Xung Kiếm, tay trái dùng Thiếu Trạch Kiếm, song kiếm cùng hất chiêu Hỏa Diễm Đao, dư thế chưa dứt, soẹt soẹt hai tiếng, phản kích ngược lại Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí không dám nghĩ ngợi gì thêm, tay trái vận kình đánh ra.
Đoàn Dự đâm ra hai kiếm rồi, hiểu được bí quyết muốn ra chiêu phải có ý nghĩ trước sau đó mới thúc đẩy nội lực ra ngón tay, nội kình chân khí mới có thể vọt ra, làm được như thế quả là tuyệt diệu. Chàng búng nhẹ ngón tay giữa lập tức Trung Xung Kiếm bắn ra, chỉ trong chớp mắt bao nhiêu hình vẽ trên đồ phổ hiện ra trong óc, mười ngón tay liên tiếp búng ra, ngón này rụt về ngón kia tung ra liên miên bất tận.
Cưu Ma Trí kinh hãi hết sức thúc đẩy nội kình chống đỡ, trong gian phòng kiếm khí dọc ngang, xen với đao kình bay lượn, chẳng khác nào vô số lằn sét bay gió giật cùng nổi lên. Hai bên đấu một hồi, Cưu Ma Trí thấy đối phương nội kình càng lúc càng mạnh, kiếm pháp biến hóa càng thêm kỳ diệu, có khi còn tự sáng tạo thêm khác hẳn với Bản Nhân, Bản Tướng phải chấp nê vào kiếm chiêu khiến cho không sao có thể suy đoán được.
Y có biết đâu Đoàn Dự nhớ không kỹ những chiêu thức phiền phức trong sáu mạch kiếm pháp, trong cơn nguy cấp tùy ý đâm loạn lên chứ nào có phải là tự sáng tạo ra chiêu mới? Y trong bụng vừa kinh hãi vừa hối hận: “Trong chùa Thiên Long có ẩn một cao thủ thanh niên như thế này, hôm nay mình đúng là mua lấy cái nhục”. Đột nhiên soẹt soẹt soẹt y chém luôn ba đao kêu lên:
- Ngừng tay đã!
Chân khí của Đoàn Dự không thể tùy ý thu phát, nghe đối phương kêu lên “Ngừng tay đã” không biết thu hồi nội kình cách nào, chỉ đành hất ngón tay lên chỉ thẳng vào nóc nhà, nghĩ thầm: “Ta không nên phát kình thêm nữa chờ xem y nói gì đã nào”.
Cưu Ma Trí thấy chàng mặt mày ngơ ngác, khi thu kiếm khí về chân tay luống cuống hoàn toàn không biết phép tắc gì, trong lòng chợt động lập tức tung mình nhảy tới múa chưởng đánh thẳng vào mặt chàng.
Đoàn Dự vì có nhiều cơ duyên trùng hợp nên học được môn võ họ tối cao thâm là Lục Mạch Thần Kiếm nhưng công phu quyền cước tầm thường thì lại không biết gì. Chưởng của Cưu Ma Trí có ẩn bảy tám chiêu biến hóa tiếp theo là một môn quyền pháp cực kỳ cao minh nhưng so với Hỏa Diễm Đao dùng nội kình đả thương người thì hai bên nông sâu khó dễ không thể nào bì kịp.
Trên đời này dù kỹ thuật học vấn không ai lại biết cái sâu mà không biết cái nông, biết cái khó mà không biết cái dễ, thế nhưng trong võ học thì Đoàn Dự là một biệt lệ. Chàng thấy Cưu Ma Trí múa chưởng đánh tới lật đật quờ quạng đưa tay ra đỡ, Cưu Ma Trí tay phải liền vươn ra, chộp ngay được huyệt Thần Phong trên ngực chàng. Đoàn Dự lập tức toàn thân tê dại không còn cử động gì được nữa.
Thần Phong huyệt thuộc về Túc Thiếu Âm Thận Kinh chàng chưa hề luyện qua.
Cưu Ma Trí tuy nhìn thấy Đoàn Dự có rất nhiều sơ hở, nhất thời không sao địch lại Lục Mạch Thần Kiếm vẫn tưởng phải tìm một loại võ học cao thâm nào khác để đánh bại địch thủ, thật không thể ngờ rằng lại có thể bắt được chàng một cách dễ dàng đến như vậy. Y còn sợ Đoàn Dự cố ý giả vờ để thi hành ngụy kế nên khi nắm được huyệt Thần Phong rồi, lập tức giơ ngón tay điểm các huyệt Cực Tuyền, Đại Truy, Kinh Môn mấy nơi đại huyệt. Những kinh mạch có các huyệt đạo đó Đoàn Dự chưa hề luyện qua.
Cưu Ma Trí lùi lại ba bước nói:
- Vị tiểu thí chủ này nhớ hết các đồ phổ của Lục Mạch Thần Kiếm. Các đồ phổ đã bị Khô Vinh đại sư đốt đi rồi, tiểu thí chủ này là một bộ kinh sống, đem thiêu sống y trước mộ của Mộ Dung tiên sinh thì cũng thế thôi.
Y giơ tả chưởng ra chém luôn về trước liền năm đao rồi nắm Đoàn Dự xách ra khỏi Mâu Ni Đường. Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Quan mấy người vừa định xông lên cướp Đoàn Dự về đều bị ngũ đao liên hoàn của y chặn lại không cách nào cứu người được.
Cưu Ma Trí nắm Đoàn Dự tung ra chỗ chín tên thủ hạ đang đứng ở ngoài cửa, quát lớn:
- Mau đi thôi!
Hai tên hán tử cùng giơ tay đón lấy Đoàn Dự, không đi theo đường cũ mà lại chạy thẳng vào khu rừng bên cạnh Mâu Ni Đường. Cưu Ma Trí liên tiếp dùng Hỏa Diễm Đao chém vào phía cửa Mâu Ni Đường, Bảo Định Đế và đồng bọn phóng Nhất Dương Chỉ ra nhưng nhất thời không phá nổi lưới đao vô hình của Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí nghe thấy tiếng chân ngựa lộp cộp, biết rằng chín tên bộ thuộc đã đem Đoàn Dự chạy về hướng bắc, cười dài một hồi nói:
- Đốt đồ phổ chết sao bằng đồ phổ sống, Mộ Dung tiên sinh dưới suối vàng có người bạn bè, cũng đỡ tịch mịch.
Y chém xéo chưởng phải ra, nghe lách cách mấy tiếng, chặt gãy luôn hai cái cột của tòa Mâu Ni Đường, thân hình hơi lắc một cái, đã như một làn khói bay thẳng vào rừng trong nháy mắt không biết đi đằng nào.
Bảo Định Đế và Bản Tham hai người cùng chạy ra, thấy Cưu Ma Trí đã đi mất dạng. Bảo Định Đế nói:
- Đuổi theo mau!
Gió thổi vào tăng bào phần phật ông đã bay ra ngoài mấy trượng, cùng Bản Tham đại sư hai người đuổi theo về hướng bắc.
Chú Thích:
1 Tu quay mặt vào tường
Bài liên quan