HỒI 16 - TÍCH THỜI NHÂN
Thiên Long Bát Bộ (bản Mới)
Ân xưa oán cũ bao vòng lụy,
Sớm bạn trưa thù lắm đổi thay.
Mọi người quay đầu nhìn lại thấy từ đằng sau cây hạnh một lão tăng mặt vuông tai lớn, hình mạo uy nghiêm mặc áo cà sa màu tro bước ra. Từ trưởng lão reo lên:
- Trí Quang đại sư của Thiên Đài Sơn đã đến, hơn ba mươi năm không gặp không ngờ đại sư vẫn còn tráng kiện đến thế.
Tên tuổi của hòa thượng Trí Quang không mấy nổi tiếng, những người vai vế kém một mức ở trong Cái Bang không ai biết đến ông ta. Thế nhưng Kiều Phong, lục đại trưởng lão đều đứng lên tỏ ý kính trọng, biết ông năm xưa từng phát đại nguyện dong buồm vượt biển đến những đất man hoang hái những loại cây lạ chữa bệnh cho vô số dân chúng vùng Triết Mân Lưỡng Quảng bị nhiễm bệnh. Chính vì thế mà ông ta bị ốm nặng khiến cho võ công hoàn toàn mất hết nhưng ân huệ với bách tính không phải nhỏ. Mọi người lục tục tới gần thi lễ.
Trí Quang đại sư quay sang Triệu Tiền Tôn cười nói:
- Võ công không bằng đối phương, chịu cho người ta đánh không đánh trả đã là khó, nếu như võ công cao hơn đối phương mà bị đánh vẫn không đánh trả thì lại càng khó hơn.
Triệu Tiền Tôn cúi đầu ngẫm nghĩ xem chừng đã hiểu. Từ trưởng lão nói:
- Trí Quang đại sư đức trạch sâu xa không ai mà không kính trọng. Thế nhưng gần mươi năm nay không còn hỏi đến chuyện chốn giang hồ, hôm nay Phật giá quang lâm quả là cái phúc của bọn ăn mày chúng tôi, tại hạ thật là cảm kích.
Trí Quang đại sư nói:
- Từ trưởng lão của Cái Bang và Đơn Phán Quan của núi Thái Hàng liên danh gọi đến, lão nạp lẽ nào lại không đi? Thiên Đài sơn và Vô Tích có xa xôi gì, trong thư hai vị có nói là việc này liên quan đến khí vận của dân đen nên đành phụng chiếu.
Kiều Phong nghĩ thầm: “Thì ra ông ta được Từ trưởng lão và Đơn Chính mời đến”. Ông nghĩ tiếp: “Ta vẫn nghe Trí Quang đại sư đức cao vọng trọng không thể nào tham dự vào cái âm mưu làm hại ta, có lão nhân gia đến đây cũng là chuyện tốt”.
Triệu Tiền Tôn đột nhiên nói:
- Cuộc đại chiến nơi Loạn Thạch Cốc ngoài Nhạn Môn Quan Trí Quang đại sư cũng có tham dự, vậy mời ông nói trước.
Trí Quang nghe thấy mấy tiếng “Cuộc đại chiến nơi Loạn Thạch Cốc ngoài Nhạn Môn Quan” lập tức sắc mặt lộ vẻ kỳ lạ, vừa có vẻ bồn chồn, vừa có vẻ sợ sệt, lại giống như quả thảm khốc nên không muốn nhìn, sau cùng chuyển sang đầy vẻ từ bi thương xót, thở dài nói:
- Sát nghiệt nặng nề thay! Sát nghiệt nặng nề thay! Chuyện này nói ra quả là đáng thẹn. Các vị thí chủ, đại chiến nơi Loạn Thạch Cốc đã ba mươi năm rồi sao hôm nay còn nhắc lại làm chi?
Từ trưởng lão nói:
- Chỉ vì bản bang hiện nay gặp phải biến cố trọng đại, có liên quan mật thiết đến lá thư này.
Nói xong ông đưa lá thư ra. Trí Quang cầm lá thư đọc qua một lượt, rồi lại đọc thêm một lần nữa, lắc đầu nói:
- Oan gia nên cởi không nên buộc, việc gì phải đem chuyện cũ ra nhắc lại làm gì? Cứ như ý kiến lão nạp, lá thư này nên hủy đi, không nên để lại vết tích gì là tốt hơn cả.
Từ trưởng lão đáp:
- Mã phó bang chủ của bản bang bị chết thảm, nếu như không truy cứu, nỗi oan của Mã phó bang chủ dĩ nhiên không rửa sạch, bản bang lại có cơ nguy tan rã.
Trí Quang đại sư gật đầu:
- Vậy thì cũng nên nói ra.
Ông ngẩng đầu lên thấy vầng trăng lưỡi liềm treo nơi chân trời tỏa trên tàn cây một luồng ánh sáng nhợt nhạt rồi quay sang nhìn Triệu Tiền Tôn nói:
- Thôi được, chuyện lão nạp sai lầm năm xưa không dấu ai nữa cứ có sao nói vậy.
Triệu Tiền Tôn nói:
- Chúng ta vì nước vì dân không thể nói là chuyện sai lầm.
Trí Quang lắc đầu:
- Sai lầm là sai lầm, việc gì còn phải dối người dối mình làm chi?
Ông quay sang phía mọi người kể:
- Ba mươi năm trước, hào kiệt Trung Nguyên nhận được tin là nước Khất Đan sắp đưa qua một đoàn võ sĩ đánh vào chùa Thiếu Lâm để đoạt lấy những đồ phổ nhà chùa đã tàng trữ mấy trăm năm qua.
Mọi người ồ lên một tiếng nho nhỏ nghĩ thầm: “Dã tâm của bọn võ sĩ Khất Đan quả không phải nhỏ”. Võ công tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm là những chí bảo của Trung Thổ, Khất Đan và Đại Tống chinh chiến lâu năm nếu như họ lấy được những võ công bí cập của chùa Thiếu Lâm đem ra dạy cho quân lính tập, ở trên chiến trường quan binh Đại Tống sẽ không thể nào đương cự nổi. Trí Quang kể tiếp:
- Việc đó quả là chuyện hết sức trọng đại, nếu như Khất Đan thành công thì Đại Tống sẽ có cái họa mất nước, người người sẽ chết dưới đao dài, giáo nhọn của quân Liêu, bọn con cháu Hoàng Đế chúng ta e rằng bị diệt chủng mất thôi. Chúng ta thấy sự việc khẩn cấp, không kịp bàn tính kỹ càng nghe nói bọn võ sĩ đó sẽ đi bằng lối Nhạn Môn Quan nên một mặt thông tri cho chùa Thiếu Lâm phòng bị nghiêm nhặt, tất cả mọi người lập tức lên đường đi ngay ra bên ngoài của Nhạn Môn nghinh địch, nếu không diệt được hết bọn chúng thì cũng làm cho gian mưu không thể thi hành được.
Mọi người nghe nói sẽ đi đánh nhau với quân Khất Đan đều nhiệt huyết sôi sùng sục nhưng cũng lại lo. Nhà Đại Tống bao nhiêu đời nay bị quân Khất Đan hà hiếp lăng nhục đánh trận nào thua trận ấy, binh tướng thì chết, đất đai phải nhường, binh lính dân lành chết dưới đao của quân Khất Đan không phải là ít.
Trí Quang đại sư chậm rãi quay đầu lại, chăm chăm nhìn Kiều Phong nói:
- Kiều bang chủ, nếu như ông nghe được cái tin như thế thì phải làm sao?
Kiều Phong dõng dạc đáp:
- Trí Quang đại sư, Kiều mỗ kiến thức thiển lậu, tài đức không đủ để cho mọi người kính phục, đến nỗi trong bang anh em cũng còn có dạ nghi ngờ, nói ra quả là hổ thẹn. Thế nhưng dù cho Kiều mỗ vô năng nhưng cũng là một kẻ nam nhi có gan dạ, có cốt cách, những việc tiết nghĩa như thế không phải không biết chỗ nào đúng, chỗ nào sai. Đại Tống chúng ta bị quân chó Liêu kia hiếp đáp, thù nhà nợ nước ai mà chẳng nghĩ đến chuyện báo đáp? Nếu như nghe thấy những tin tức như vậy thể nào cũng tất lãnh anh em trong bản bang, ngày đêm đến chặn chúng lại.
Mấy lời của ông quả là khẳng khái hiên ngang, ai nghe thấy cũng bồi hồi xúc động nghĩ thầm: “Nam nhi hán, đại trượng phu phải như thế mới được”.
Trí Quang gật đầu nói:
- Nếu như thế, bọn ta chạy ra ngoài Nhạn Môn Quan phục kích người Liêu, theo như Kiều bang chủ thì không có gì sai trái, phải không?
Kiều Phong trong bụng hơi bực, nghĩ thầm: “Ông nghĩ ta là hạng người gì? Câu nói đó quả đã coi thường ta lắm”. Tuy nhiên ông không tỏ ra giận dữ chỉ nói:
- Anh phong hiệp liệt của các vị tiền bối, Kiều mỗ cực kỳ kính phục, chỉ tiếc không sinh ra sớm ba mươi năm để được theo các bậc tiên hiền, cùng chung nghĩa cử đi giết quân Hồ Lỗ.
Trí Quang nhìn kỹ ông một lần nữa, vẻ mặt thoáng vẻ lạ lùng, chậm rãi nói:
- Khi đó chúng ta chia thành nhiều toán chạy đến Nhạn Môn Quan. Ta và vị huynh đệ này...
Ông chỉ vào Triệu Tiền Tôn rồi tiếp:
-... đều ở toán thứ nhất. Toán của bọn ta cả thảy hai mươi mốt người, người đứng đầu tuổi cũng chưa lớn, so với ta còn kém vài tuổi. Thế nhưng y võ công trác tuyệt, trong võ lâm địa vi tôn vinh nên mọi người cử y lên làm thủ lãnh, ai nấy nghe lệnh y mà hành sự.
Trong toán chúng ta có Uông bang chủ của Cái Bang, Vương lão anh hùng Vạn Thắng Đao Vương Duy Nghĩa, Địa Tuyệt Kiếm Hạc Vân đạo trưởng của phái Hoàng Sơn đều là những cao thủ hạng nhất trong võ lâm thời đó.
Lúc đó lão nạp chưa xuất gia xếp vào chung với quần hùng thật không xứng chút nào, chỉ có điều giết địch báo quốc không chịu kém người, có chút công sức nào đóng góp chút đó. Vị nhân huynh này lúc đó võ công cũng cao hơn lão nạp nhiều, còn bây giờ thì khỏi cần nói cũng biết.
Triệu Tiền Tôn nói:
- Đúng vậy! Khi đó võ công ta giỏi hơn ông nhiều, ít ra cũng cỡ này.
Y vừa nói vừa đưa hai tay ra, xòe ra cách nhau đến hơn một thước. Thế nhưng y cảm thấy như vậy chưa đủ, lại nhích hai bàn tay ra xa đến thước rưỡi. Trí Quang kể tiếp:
- Bọn ta qua khỏi Nhạn Môn Quan thì trời đã về chiều, đi ra khỏi cửa ải thêm độ mươi dặm nữa, hết sức phòng bị đột nhiên từ phía tây bắc vọng lại tiếng vó ngựa đang phi, nghe tiếng chân phải đến chục kỵ sĩ. “Đàn anh đứng đầu” giơ tay phải lên, tất cả mọi người đều dừng lại. Mọi người trong bụng vừa vui mừng vừa lo lắng không ai nói câu nào. Vui mừng vì tin tức không phải là giả, may là mình đã đến kịp kịp thời ngăn được bọn chúng. Thế nhưng ai cũng biết đoàn võ sĩ Khất Đan mười phần lợi hại, tử tế thì đã không đến, đến ắt chẳng hay ho gì, lại toan tấn công vào Thái Sơn Bắc Đẩu của võ học Trung Quốc thì nhất định phải là thành phần được tuyển chọn muôn vạn người mới có một chứ không phải tầm thường. Đại Tống đánh với Khất Đan thua thì nhiều, thắng chẳng bao nhiêu, cuộc chiến hôm nay thắng bại thế nào thực khó mà biết được.
“Đàn anh đứng đầu” giơ tay vẫy một cái, hai mươi mốt người chúng ta chia nhau ra ẩn đằng sau những tảng đá. Phía bên trái sơn cốc là một cái vực sâu đá nhọn lởm chởm, đưa mắt nhìn xuống chỉ một màu đen ngòm không thấy đáy.
Tai nghe tiếng chân ngựa mỗi lúc một gần, rồi có tiếng bảy tám người cùng hát vang một bài hát của người Liêu, tiếng ngân dài, nghe quê mùa hào tráng nhưng không hiểu ý nghĩa thế nào. Ta nắm chặt cán đao, lòng bàn tay toát mồ hôi lạnh, lau vào ống quần cho khô chẳng mấy chốc lại ướt nữa. “Đàn anh đứng đầu” nằm ngay bên cạnh ta, y biết ta hồi hộp lắm nên đưa tay vỗ vỗ lên vai, nhìn ta mỉm cười, lại giơ tay lên chém nhứ một cái ý nói giết quân Hồ Lỗ. Ta cũng cười đáp lại, trong lòng thấy trấn tĩnh hơn nhiều.
Con ngựa đầu của bọn Liêu đến cách bọn ta chừng ngoài năm chục trượng, ta từ sau đám loạn thạch thò đầu ra xem thấy đám võ sĩ Khất Đan đều mặc áo lông, có kẻ tay cầm trường mâu, có đứa thì cầm loan đao, có đứa lại cầm cung tên, lại cũng có kẻ trên vai đậu một con chim săn thật to lớn hung mãnh, cả bọn vừa đi vừa hát, không biết rằng đằng trước có địch nhân mai phục. Chỉ trong giây lát, ta đã nhìn rõ diện mạo của mấy tên Khất Đan đi đầu, đứa nào cũng cắt tóc ngắn để râu rậm, trông thật hung dữ. Bọn chúng càng lúc càng gần, tim ta mỗi lúc đập một nhanh hơn tưởng như sắp bật ra khỏi miệng.
Mọi người nghe ông ta kể chuyện, tuy biết rằng đây là chuyện cũ ba mươi năm trước nhưng ai nấy cũng hồi hộp. Trí Quang quay sang Kiều Phong nói:
- Kiều bang chủ, việc này thành hay bại liên quan đến việc mất còn của nhà Đại Tống, sống chết của bách vạn sinh linh, mà bên ta cũng không biết chắc có thắng được hay không. Chỉ có một điểm lợi là địch ở ngoài sáng, ta trong bóng tối, không biết theo ý bang chủ thì phải thế nào cho phải?
Kiều Phong đáp:
- Xưa nay việc binh không nề lừa dối, việc này là chuyện hai nước giao tranh không thể nào theo nghĩa khí giang hồ, qui củ võ lâm được. Bọn chó Liêu khi giết dân đen nhà Đại Tống chúng ta, có bao giờ nương tay đâu? Cứ như ngu kiến của tại hạ thì nên dùng ám khí, mà ám khí phải tẩm độc cực mạnh.
Trí Quang giơ tay vỗ đùi, nói:
- Đúng đó. Ý kiến của Kiều bang chủ cũng y hệt sự suy nghĩ của bọn ta hồi đó. “Đàn anh đứng đầu” thấy bọn Liêu cẩu đến gần, hú lên một tiếng, mọi người liền phóng ám khí ra, đủ cả cương tiêu, tụ tiễn, phi đao, thiết chùy... loại nào cũng tẩm độc cực mạnh. Bọn chó Liêu kia kêu la hò hét, loạn cả lên, hơn một nửa đã ngã xuống ngựa.
Trong đám Cái Bang lập tức có kẻ vỗ tay rồi tiếng hoan hô nổi lên. Trí Quang nói tiếp:
- Bấy giờ ta đã nhìn thấy rõ ràng, võ sĩ Khất Đan cả thảy là mười chín đứa, chúng ta dùng ám khí đã tiêu diệt được mười hai người, chỉ còn lại có bảy tên. Tất cả chúng ta liền ùa lên, đao kiếm vung ra, chỉ trong giây lát giết sạch luôn cả bảy, không một đứa nào chạy thoát.
Trong Cái Bang cũng vẫn có người reo hò nhưng Kiều Phong, Đoàn Dự lại nghĩ: “Ông vừa bảo võ sĩ Khất Đan là “thành phần được tuyển chọn muôn vạn người mới có một” nhưng sao lại kém cỏi thế, chỉ giây lát đã bị giết sạch là sao?
Chỉ nghe Trí Quang thở dài một tiếng nói:
- Chúng ta chỉ vừa ra tay đã giết sạch mười chín tên võ sĩ Khất Đan, tuy cũng vui sướng thật nhưng trong bụng đã nổi mối nghi ngờ, thấy bọn Khất Đan này quá là tầm thường, không đứa nào chịu nổi một cái đánh hoàn toàn không phải là hảo thủ. Chẳng lẽ những tin tức nghe được không chính xác hay sao? Cũng khó mà bảo là người Liêu sắp xếp bọn này để dụ cho bọn ta vào tròng? Bọn ta mới bàn bạc được vài câu lại nghe tiếng vó ngựa, từ hướng tây bắc có hai người cưỡi ngựa chạy đến.
Lần này bọn ta không mai phục nữa, lập tức tiến lên nghinh địch, thấy trên yên ngựa là một nam, một nữ. Người đàn ông thân hình cao lớn, tướng mạo uy nghiêm, ăn mặc sang hơn mười chín tên võ sĩ kia nhiều. Người đàn bà còn trẻ, trong tay bồng một đứa hài nhi, hai người nói cười vui vẻ, thần thái hết sức trìu mến rõ ra là một cặp vợ chồng. Hai người Khất Đan trông thấy bọn ta, lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng thấy ngay xác mười chín tên võ sĩ nằm dưới đất, người đàn ông liền lộ vẻ hung dữ, lớn tiếng quát tháo xí xố một tràng bằng tiếng Khất Đan không hiểu y muốn nói gì.
Thiết Tháp Phương Đại Hùng Phương tam ca đất Đại Đồng Sơn Tây vung cây thiết côn bằng thép ròng lên quát lớn: “Thằng chó Liêu khốn kiếp kia, mau chịu chết!”. Y liền vung gậy lên đánh tới gã Khất Đan kia. “Đàn anh đứng đầu” trong bụng ngờ vực bèn kêu lên: “Phương tam ca, đừng nên lỗ mãng, chớ hại mạng y, chỉ bắt sống tra hỏi xem thế nào?”.
“Đàn anh đứng đầu” chưa nói hết câu, tay gã Khất Đan đã vươn ra chộp luôn thiết côn của Phương Đại Hùng, thúc một cái nghe cắc một tiếng nhỏ, khớp xương tay Phương Đại Hùng đã gãy. Gã Khất Đan vung cây gậy lên từ trên không đánh xuống, bọn ta ai nấy kinh hoảng kêu lên, thấy không thể nào xông lên cứu kịp nên ai nấy liền bắn ám khí vào y.
Gã người Liêu kia liền phất tay áo bên trái một cái, một luồng kình phong hất bảy tám món ám khí dạt cả ra. Tính mạng Phương Đại Hùng xem ra không sao sống được, ngờ đâu y thò thiết côn ra hất một cái, cả Phương Đại Hùng lẫn cây côn đều văng ra ngoài vệ đường, mồm vẫn xí xố không ai hiểu gì cả.
Người đó chỉ lộ chút công phu, bọn ta ai nấy đều chấn động, biết rằng người này võ công cao cường trên đời hiếm có quả nhiên tin tức loan truyền không phải là giả e rằng những hảo thủ đến sau còn giỏi hơn nữa nên phải lấy đông thắng ít, giết được tên nào hay tên ấy, lập tức sáu bảy người liền xông lên tấn công. Bốn năm người khác cũng xông vào tấn công người đàn bà.
Ngờ đâu thiếu phụ đó hoàn toàn không biết chút võ công nào hết, một người vung kiếm lên chém đứt một cánh tay bà ta, đứa trẻ trong tay liền rơi xuống đất, một người khác vung đao hớt đứt luôn nửa bên đầu thiếu phụ. Gã người Liêu kia võ công tuy cao cường thật nhưng bị sáu bảy cao thủ dùng đao kiếm vây đánh nên làm sao có thể phân thân chống đỡ cho vợ con? Mấy chiêu đầu y chỉ cốt đoạt binh khí của những người phe ta, không làm ai bị thương cả, đến khi thấy vợ chết rồi, mắt đỏ ngầu, vẻ mặt cực kỳ đáng sợ. Khi đó ta vừa chạm phải mục quang y, tự nhiên chân tay bủn rủn không dám xông lên nữa.
Triệu Tiền Tôn nói:
- Việc đó cũng không trách ai được! Việc đó cũng không trách ai được!
Y ngoài những câu nói với Đàm bà ra, ăn nói với ai cũng ra chiều kẻ cả ngạo mạn nhưng mấy câu này xem ra vừa có phần đau buồn vừa có phần khiêm tốn. Trí Quang tiếp:
- Cuộc ác chiến đó đã ba mươi năm trước nhưng trong thời gian ba chục năm qua không biết bao nhiêu lần nằm mơ thấy cái cảnh đó, từng chi tiết rõ ràng in hằn trong tim ta. Gã người Liêu vung hai tay ra, không biết y dùng thủ pháp cầm nã nào đoạt luôn được hai món binh khí trong tay hai huynh đệ, vừa chém vừa đâm giết luôn hai người. Y lúc thì từ lưng ngựa nhảy vọt ra, có lúc lại nhảy trở về lưng ngựa, nhanh như chim cắt vồ mồi, hành động biến chuyển không khác gì ma quỉ. Đúng thế, y chẳng khác gì ma quỉ hóa thân, xông bên đông giết một người, chuyền qua bên tây giết thêm người nữa. Chỉ trong giây lát, trong hai mươi mốt người chúng ta đã có chín người bị y giết chết.
Thế là cả bọn ta ai nấy hầm hầm tức giận, từ “đàn anh đứng đầu” đến Uông bang chủ, người nào cũng liều mạng xông lên giao đấu với y. Thế nhưng người đó võ công hết sức lạ lùng kỳ diệu, chiêu thức nào cũng khiến cho người ta không thể đoán được sẽ tấn công từ phương hướng nào. Khi đó mặt trời buổi chiều đỏ như máu, bên ngoài Nhạn Môn Quan gió bấc thổi vù vù, trộn lẫn tiếng kêu thảm khốc của các anh hùng hảo hán lúc sắp lìa đời, chân tay đầu lâu, binh khí máu me tung bay rơi rụng, những cao thủ giỏi mấy cũng chỉ mong tự bảo vệ lấy mình, không ai còn có thể cứu người khác được.
Ta thấy tình hình đó trong bụng lại càng sợ hãi nhưng thấy anh em từng người từng người chết thảm không khỏi nhiệt huyết dâng lên, thu hết can đảm, cưỡi ngựa xông thẳng vào y. Hai tay ta cầm đại đao, nhắm ngay đầu y chém xuống, biết rằng nếu như không trúng thì tính mạng coi như giao cho y. Lưỡi đao còn cách đầu y chừng một thước, gã người Liêu kia đột nhiên chộp ngay một người đưa lên đỡ lưỡi đao. Ta hốt hoảng nhìn lại thì ra kẻ đó là lão nhị trong Giang Tây Đỗ thị tam hùng, vội gượng giữ đao lại. Thanh đao giựt về nghe bịch một tiếng trúng ngay đầu con ngựa ta đang cưỡi, con vật liền hí lên một tiếng, nhảy chồm lên. Ngay lúc đó chưởng của gã người Liêu kia đánh ra, con vật đang lúc nhảy dựng lên vừa vặn đúng lúc chịu ngay một đòn nếu không ắt ta đã đứt gân gãy cốt, còn sống sao được tới ngày nay?
Chưởng lực của y đánh ra quả là mạnh mẽ, khiến ta cả người lẫn ngựa bật ngửa về sau. Thân hình ta bay bổng lên, rơi xuống ngay trên một ngọn cây, treo bông bênh giữa trời. Khi đó ta hồn bất phụ thể, có còn biết mình đang ở nơi nào còn sống hay chết đâu? Từ trên cao ta nhìn xuống thấy anh em vây đánh gã người Liêu kia mỗi lúc một giảm dần, chỉ còn độ năm sáu người. Vừa khi đó ta nhìn thấy vị nhân huynh này...
Nói tới đây ông chỉ vào Triệu Tiền Tôn kể tiếp:
-... thân hình lảo đảo ngã vào trong đống máu, lại tưởng y cũng chết rồi.
Triệu Tiền Tôn lắc đầu nói:
- Chuyện xấu xa đó nói ra thật đáng hổ thẹn nhưng cũng chẳng nên dấu làm gì. Ta không bị thương mà vì sợ quá nên tim ngừng đập, mắt tối sầm bất tỉnh nhân sự đó thôi. Quả đúng thế, ta là thằng chết nhát, thấy người khác bị giết nên cũng ngất xỉu.
Trí Quang nói:
- Ai thấy gã người Liêu kia sát hại các anh em chẳng khác gì ma quỉ, nếu nói là không sợ thì cũng là nói ngoa.
Ông ta nhìn lên vầng trăng non treo lơ lửng trên không rồi lại tiếp:
- Khi đó còn tiếp tục đánh dằng dai với gã Liêu nhân kia chỉ còn có bốn người. “Đàn anh đứng đầu” biết không xong, rồi ra mọi người sẽ chết cả nên luôn mồm hỏi: “Ngươi là ai? Ngươi là ai?”. Gã người Liêu kia không trả lời, chỉ trong chốc lát lại giết thêm hai người nữa. Y giơ chân lên đá trúng ngay huyệt đạo trên lưng Uông bang chủ, tiếp theo chân trái đá uyên ương liên hoàn, đá trúng huyệt đạo nơi mạng sườn của “đàn anh đứng đầu”. Mũi bàn chân y đá trúng huyệt đạo, nhận huyệt đã chính xác, cước pháp lại lạ lùng thực khó ai ngờ nổi, nếu như chẳng phải chính mình cũng sắp chết đến nơi, người bị đá là hai người ta hằng kính ngưỡng thì chắc đã buột miệng reo lên rồi.
Gã người Liêu kia thấy cường địch đã bị giết sạch chạy đến bên tử thi của thiếu phụ, ôm xác vợ khóc rống lên một hồi, nghe thật thảm thiết. Ta nghe tiếng khóc của y không khỏi đau lòng, thấy tên Liêu cẩu hung ác như ma quỉ kia cũng còn có nhân tính, đau lòng xót dạ cũng chẳng khác gì người Hán chúng ta.
Triệu Tiền Tôn lạnh lùng nói:
- Thế thì có gì là lạ? Cái tình vợ chồng cha con của dã thú có khác gì con người đâu? Liêu nhân cũng là người, sao lại nói là không khác gì người Hán?
Trong đám Cái Bang có mấy người phản đối:
- Liêu cẩu hung tàn bạo ngược, còn hơn độc xà mãnh thú, khác xa người Hán chúng ta.
Triệu Tiền Tôn chỉ cười khẩy không trả lời. Trí Quang kể tiếp:
- Gã người Liêu kia ngồi khóc một hồi, ôm xác đứa con nhìn một lát, để hài nhi vào lòng mẹ, bước tới chỗ “đàn anh đứng đầu” chửi bới một chập. “Đàn anh đứng đầu” cũng không chịu nhịn, giương mắt hầm hầm nhìn y, khổ nỗi huyệt đạo đã bị điểm, không nói được lời nào. Người Liêu đó đột nhiên ngẩng đầu lên hú một tiếng dài, nhặt một thanh đoản đao dưới đất, vạch lên trên sườn núi mấy chữ, lúc đó trời đã tối rồi, ta lại ở cách y khá xa nên không rõ y vạch những gì.
Triệu Tiền Tôn nói:
- Y khắc bằng chữ Khất Đan, ông có thấy cũng chẳng biết được.
Trí Quang đáp:
- Đúng thế, ta có thấy cũng chẳng biết được. Khi đó bốn bề vắng lặng không một tiếng động, nghe thấy tiếng khắc lên đá soèn soẹt, đá vụn rơi xuống cũng còn nghe, ta thật thở cũng không dám thở mạnh. Không biết bao lâu, nghe keng một tiếng, y vứt con dao găm xuống, cúi xuống ôm xác vợ con lên, đi đến bờ vực tung mình nhảy xuống sơn cốc.
Mọi người nghe đến đây đều “A” lên một tiếng không ngờ chuyện lại xảy ra như thế. Trí Quang đại sư kể tiếp:
- Các vị bây giờ nghe như thế đều ngạc nhiên, lúc đó chính mắt ta nhìn thấy lại càng kinh ngạc bội phần. Ta vẫn tưởng một người võ công cao cường như thế, ở nước Liêu ắt phải ở ngôi cao, lần này đến Trung Nguyên tập kích chùa Thiếu Lâm, nếu như y không phải là đại thủ lãnh thì cũng phải là một nhân vật trọng yếu trong đám võ sĩ. Y bắt sống được “đàn anh đứng đầu” cùng Uông bang chủ, còn bao nhiêu thì đã giết sạch, coi như toàn thắng rồi, sao không thừa thắng xông lên ai ngờ đâu y lại nhảy xuống vực sâu tự tận là thế nào.
Lúc trước lão nạp đã tới bên bờ vực nhìn xuống chỉ thấy vân vụ che phủ sâu không thấy đáy, một khi nhảy xuống thì y cũng chỉ là cái thân máu thịt, dù cho võ công cao cường tới mực nào thì cũng không sao sống sót. Ta kinh ngạc khiến buột miệng kêu lên một tiếng.
Ngờ đâu bên trong chuyện lạ lại có chuyện kỳ, tiếng kêu của ta vừa thoát ra bỗng đâu nghe tiếng oa oa của trẻ con khóc từ trong Loạn Thạch Cốc vọng lên, rồi từ dưới vực sâu một vật đen sì bay ra nghe bịch một tiếng nhỏ rơi ngay trên mình Uông bang chủ. Thế rồi tiếng hài nhi khóc oe oe không ngừng hóa ra vật rơi vào Uông bang chủ chính là đứa bé con.
Khi đó ta đã bớt sợ từ trên cây trèo xuống, chạy đến gần Uông bang chủ nhìn xem thấy đứa bé Khất Đan kia nằm trên bụng ông vẫn đang khóc. Ta ngẫm nghĩ mới tỏ tường mọi việc. Thì ra khi thiếu phụ Khất Đan bị giết, đứa con rơi xuống đất chỉ bị tắc hơi nhưng chưa chết hẳn. Gã người Liêu kia khóc lóc thảm thiết sờ mũi con thấy không thở nữa lại tưởng vợ con chết cả rồi nên ôm hai thi thể nhảy xuống vực tự tận.
Đứa hài nhi kia bị chấn động, tỉnh lại khóc ré lên. Gã người Liêu kia thân thủ quả là ghê gớm, không muốn đứa con kia phải chết theo mình dưới vực sâu, lập tức cầm đứa trẻ ném lên. Y nhớ đúng phương vị khoảng cách nên nhắm ngay bụng Uông bang chủ mà thẩy để cho hài nhi không bị thương. Y đang ở lưng chừng, vừa phát giác ra đứa con chưa chết lập tức tung lên, tâm tư chuyển biến đã nhanh, sử lực lại không sai một li nào, tài trí đó, võ công đó quả thực đáng gờm đáng sợ.
Ta mắt thấy các anh em chết thảm, trong cơn đau lòng, cầm đứa bé Khất Đan kia lên, định liệng nó vào vách đá cho chết luôn. Khi ta vừa giơ lên thì đứa trẻ lại khóc oa oa. Ta nhìn y thấy khuôn mặt hồng hào, đôi mắt to đen láy nhìn ta. Nếu nó không nhìn ta ắt ta đã quật chết nó rồi mọi việc chẳng còn gì để nói nữa. Thế nhưng ta thấy khuôn mặt đứa trẻ thật đáng yêu, không nỡ lòng nào ra tay nghĩ bụng: “Hiếp đáp một đứa trẻ chưa đầy tuổi tôi thì còn nói gì nam tử hán, đại trượng phu cho được?”.
Trong Cái Bang có người chen vào:
- Trí Quang đại sư, Liêu cẩu giết hại đồng bào người Hán chúng ta nhiều vô số kể. Chính mắt tôi nhìn thấy bọn chó Liêu kia cầm trường mâu xiên vào trẻ con người Hán phóng ngựa trên đường diệu võ dương oai. Bọn chúng giết người được lẽ nào mình lại không giết được?
Trí Quang đại sư thở dài đáp:
- Nói thì đúng thế nhưng đời có câu rằng: Trắc ẩn chi tâm, nhân giai hữu chi. Hôm đó mắt ta nhìn thấy bao nhiêu người chết thảm rồi không nỡ lòng nào giết thêm một đứa trẻ nữa. Các ngươi bảo là ta đã sai lầm thì cũng được nhưng rồi ta đành phải tha mạng cho hài nhi này.
Sau đó ta đến tính giải huyệt cho “đàn anh đứng đầu” và Uông bang chủ nhưng một phần tài nghệ ta kém cỏi, lại thêm công phu đá huyệt của gã Khất Đan kia đặc dị, ta chộp nắm đánh đập, ấn bóp xoa nắn thế nào, hết thúc đẩy máu huyết, dãn gân véo thịt, mồ hôi toát ra đầm đìa bao nhiêu thủ pháp dùng hết rồi, “đàn anh đứng đầu” và Uông bang chủ vẫn trơ trơ không sao cử động được, cũng chẳng thể nào nói năng gì.
Ta không còn cách nào khác hơn, lại sợ bọn Khất Đan tới tiếp viện nên dẫn ba bốn con ngựa tới đem “đàn anh đứng đầu” và Uông bang chủ buộc lên lưng. Chính ta cũng cưỡi một con, tay ôm đứa trẻ Khất Đan dẫn thêm hai con ngựa chạy suốt đêm về đi tìm thầy thuốc chuyên về trật đả tìm cách giải huyệt nhưng cũng không giải được. Cũng may đến chiều ngày hôm sau, khi đủ mười hai giờ, các huyệt bị đóng tự nhiên mở ra.
“Đàn anh đứng đầu” và Uông bang chủ lo chuyện võ sĩ Khất Đan tấn công chùa Thiếu Lâm nên khi huyệt đạo vừa được khai thông lập tức quay lại Nhạn Môn Quan xem xét tình hình. Thế nhưng chỉ thấy xác chết máu me vương đầy mặt đất so với hôm trước không khác một mảy. Ta thò đầu ra nhìn xuống đáy vực cũng không thấy chút đầu mối nào. Chúng ta bèn cùng nhau đem xác anh em chôn cất nhưng khi đếm lại chỉ còn mười bảy tử thi. Đúng ra số người tuẫn nạn phải là mười tám người sao bây giờ lại thiếu mất một?
Ông ta nói tới đây đưa mắt nhìn Triệu Tiền Tôn. Triệu Tiền Tôn gượng cười nói:
- Trong số xác chết có một tử thi sống lại đi mất, đến nay vẫn còn là một “xác chết biết đi” kia chính là Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương này.
Trí Quang nói:
- Thế nhưng lúc đó ba người chúng ta cũng không lấy làm lạ, lại nghĩ trong khi hỗn chiến một người rơi tòm xuống vực thì cũng là chuyện bình thường. Bọn ta mai táng anh em tuẫn nạn xong rồi, cơn căm tức chưa tan, lại đem các xác chết Khất Đan đem liệng xuống dưới Loạn Thạch Cốc.
“Đàn anh đứng đầu” nói với Uông bang chủ: “Kiếm Thông huynh, gã Khất Đan kia nếu như muốn giết hai người chúng ta thật dễ như trở bàn tay, sao lại chỉ đá vào huyệt đạo của mình, để cho mình sống tới bây giờ?
Uông bang chủ đáp:
- Việc đó ta đã suy nghĩ mãi mà chưa ra, hai đứa mình là đầu não giết vợ y, cứ lý mà nói thì phải đuổi tận giết tuyệt mới đúng.
Ba người bàn tán không tìm ra nguyên do, “đàn anh đứng đầu” mới nói: “Những chữ mà y khắc trên vách đá chắc hẳn có thâm ý gì”. Khổ nỗi cả ba người chúng ta không ai biết văn tự Khất Đan, người đàn anh kia bèn xuống suối lấy nước hòa máu đọng dưới đất tô lên vách đá, sau đó xé vải trắng từ trường bào, in chữ ở trên thạch bích. Những chữ Khất Đan kia ăn sâu vào đá, phải đến hai tấc, y chỉ dùng một con dao găm mà khắc thành, riêng thủ kình đó xem ra cũng đã độc bộ thiên hạ không ai bì kịp rồi.
Ba người nhìn mà kinh ngạc, nhớ lại tình hình hôm qua trong lòng vẫn còn thảng thốt. Về đến quan nội rồi, Uông bang chủ đi tìm một gã lái trâu ngựa thường qua Thượng Kinh nước Liêu để đi buôn biết chữ Khất Đan đưa tấm vải cho y xem nhờ dịch ra chữ Hán viết lên trên giấy.
Ông ta nói đến đây ngẩng đầu nhìn trời thở dài một tiếng, kể tiếp:
- Ba người chúng ta đọc xong bản văn dịch rồi, người nọ nhìn người kia không sao tin nổi. Gã Khất Đan kia lúc đó đã quyết ý tự tận, lẽ nào còn nói láo? Bọn ta lại đi tìm một người khác cũng thông tiếng Khất Đan nhờ y dịch miệng lại từng câu thì ý tứ cũng cùng như thế. Ôi, nếu sự thực là vậy thì không những mười bảy anh em tuẫn nạn oan, những người võ sĩ kia cũng không tội vạ gì mà bị liên lụy, còn đối với vợ chồng người Khất Đan thì chúng ta thật có lỗi không đâu kể xiết.
Mọi người ai nấy đều muốn nghe những hàng chữ Khất Đan trên vách núi kia có ý nghĩa gì nhưng thấy nhà sư vẫn giằng dai không nói có người nóng tính liền hỏi ngay:
- Thế những chữ đó nghĩa là sao?
- Sao lại có lỗi với y?
- Tại sao lại oan cho vợ chồng người đó?
Trí Quang nói:
- Các vị bằng hữu, không phải là ta có ý muốn dấu diếm không chịu tiết lộ ý nghĩa của những chữ Khất Đan kia. Nếu như trên vách đá những hàng chữ đó là sự thực thì hành vi của người đàn anh kia, Uông bang chủ và cả ta đều hết sức sai trái, không còn mặt mũi nào mà nhìn ai. Trí Quang này trong võ lâm chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, có sai lầm thì cũng chẳng đáng gì thế nhưng vị đàn anh và Uông bang chủ là những người địa vị thân phận cao biết là bao? Huống chi Uông bang chủ đã qui tiên rồi, ta đâu dám nói năng càn rỡ để làm tổn hại đến thanh danh hai người đó, thành thử tha lỗi cho ta không thể nói trắng ra.
Tiền bang chủ của Cái Bang là Uông Kiếm Thông uy danh quả là quan trọng, cả Kiều Phong, các trưởng lão, các đệ tử ai ai cũng đều chịu ơn ông, bọn ăn mày tuy hiếu kỳ thật nhưng nghe nói chuyện này có liên quan đến thanh danh Uông bang chủ, không một ai dám hỏi thêm.
Trí Quang lại kể tiếp:
- Ba người chúng ta bàn tán một hồi, không ai muốn tin đây là sự thực nhưng lại cũng không thể không tin nên quyết định tạm tha mạng cho đứa hài nhi Khất Đan, trước hết đến chùa Thiếu Lâm nghe ngóng động tĩnh đã, nếu như võ sĩ Khất Đan có đến tấn công thực lúc đó giết đứa trẻ cũng còn vừa. Bọn ta chạy ngày đêm không ngừng vó, đến chùa Thiếu Lâm rồi thấy các lộ anh hùng đến đây tiếp tay cũng không ít. Việc này liên quan đến hàng nghìn hàng vạn an nguy sống chết của bách tính Thần Châu, chỉ cần tin loan ra ai ai cũng muốn đóng góp chút công lao.
Trí Quang chậm rãi đưa mắt từ trái sang phải nhìn khắp mọi người nói tiếp:
- Kỳ đó tụ hội ở chùa Thiếu Lâm những người tuổi tác đã cao cũng tham dự, những việc xảy ra ta không cần phải dài dòng. Tất cả cẩn thận phòng bị, canh gác chặt chẽ, các lộ anh hùng đến tiếp viện mỗi lúc một đông. Cứ như thế từ tiết Trùng Dương tháng chín đến tháng chạp, hơn ba tháng trời chẳng thấy tăm hơi gì, mới định đi kiếm kẻ phao tin kia vặn hỏi thì không sao kiếm thấy y được nữa. Bọn ta lúc ấy mới nghĩ rằng tin kia là giả, bị người ta đánh lừa. Trận chiến ở ngoài Nhạn Môn Quan, hai bên đều chết quả thật oan uổng.
Thế nhưng chẳng bao lâu, quân thiết kỵ Khất Đan lại xâm phạm, tấn công các nơi đóng quân ở Hà Bắc nên việc võ sĩ Khất Đan có đến tấn công chùa Thiếu Lâm nữa hay không chẳng ai còn để ý tới. Bọn chúng đến tấn công cũng được mà không tấn công cũng chẳng sao, nói chung thì người Khất Đan là kẻ tử thù của Đại Tống.
“Đàn anh đứng đầu”, Uông bang chủ và ta ba người đối với chuyện ngoài ải Nhạn Môn có phần hổ thẹn nên chỉ kể lại với phương trượng chùa Thiếu Lâm và báo tin cho gia đình những anh em tử nạn, ngoài ra không hé răng với một ai, còn đứa bé Khất Đan đem gửi nuôi tại một nhà nông dưới chân núi Thiếu Thất.
Việc đã qua rồi, chuyện đứa hài nhi đó xử trí thế nào cũng đành thúc thủ. Bọn ta đối với cha mẹ nó không phải đạo nên không đành lòng giết nó. Thế nhưng bảo là nuôi nó lớn khôn thì người Khất Đan là kẻ tử thù của mình, ba người đều nghĩ tới chuyện “dưỡng hổ di hoạn”. Về sau “đàn anh đứng đầu” lấy ra một trăm lạng bạc, giao cho nhà nông đó nhờ họ nhận thằng bé Khất Đan làm con, khi nó lớn lên tuyệt đối không cho nó biết nó không phải là con ruột.
Vợ chồng nhà nông đó vốn không có con, lập tức vui mừng nhận lời ngay. Hai người đó nào có biết đứa trẻ là dòng máu Khất Đan vì khi chúng ta đem nó tới núi Thiếu Thất, trên đường đã thay quần áo người Hán cho nó rồi. Người dân Đại Tống thù hận người Liêu tận xương tủy, nếu thấy hài nhi mặc y phục Khất Đan thể nào cũng làm hại nó...
Kiều Phong nghe đến đây, trong bụng đã đoán được tám chín phần, run run hỏi:
- Trí Quang đại sư, thế... thế người nhà nông dưới chân núi Thiếu Thất ấy, y... y... họ gì?
Trí Quang đáp:
- Chắc ông cũng đoán được rồi, ta cũng chẳng dấu làm chi. Người nhà nông đó họ Kiều, tên là Tam Hòe.
Kiều Phong bàng hoàng kêu lên:
- Không! Không! Ông chớ có nói láo, dựng chuyện ra để vu hãm cho ta. Ta đường đường là người Hán, sao lại là quân Hồ Lỗ Khất Đan được? Tam Hòe công là... là... cha ruột của ta, ông chớ có nói bậy...
Đột nhiên ông vươn hai tay ra, nhảy xổ đến trước mặt Trí Quang, tay trái chộp luôn vào ngực ông ta. Đơn Chính và Từ trưởng lão cùng xông vào cứu đồng thời kêu lên:
- Không được!
Kiều Phong thân thủ cực nhanh, tay vẫn xách nhà sư nhảy tránh sang một bên.
Con trai Đơn Chính là Đơn Trọng Sơn, Đơn Thúc Sơn, Đơn Quí Sơn ba người cùng xông lên phía đằng sau ông ta. Kiều Phong vươn tay phải chộp Đơn Thúc Sơn vứt ra ngoài xa, rồi lại chộp Đơn Trọng Sơn ném ra, còn lần thứ ba thì cầm Đơn Quí Sơn quật xuống đất, giơ chân đạp lên cổ y.
Đơn Thị Ngũ Hổ ở một dãy Sơn Đông khá tiếng tăm, năm anh em thành danh cũng đã lâu chứ nào phải hạng hậu bối vừa ra khỏi lều tranh. Thế nhưng Kiều Phong tay trái cầm Trí Quang, tay phải liên tiếp chộp người ném ra, quăng ba đại hán nhà họ Đơn chẳng khác gì người bù nhìn bện bằng rơm, đối phương không thể nào kháng cự được khiến cho người đứng ngoài phải há hốc mồm.
Đơn Chính và Đơn Bá Sơn, Đơn Tiểu Sơn cốt nhục tình thâm đều toan xông lên cứu viện nhưng thấy Kiều Phong đạp chân lên đầu Đơn Quí Sơn biết rằng ông ta công lực ghê gớm, chỉ cần ấn một cái thì thể nào Đơn Quí Sơn cũng bị vỡ sọ. Ba người mới đi được vài bước đành phải đứng lại. Đơn Chính kêu lên:
- Kiều bang chủ, có gì thì nói chuyện với nhau, không nên mạnh tay. Nhà họ Đơn chúng tôi với ông không thù không oán, xin ông tha cho con tôi.
Thiết Diện Phán Quan mà phải nói đến câu đó có khác gì ngỏ lời van xin Kiều Phong. Từ trưởng lão nói:
- Kiều bang chủ, Trí Quang đại sư được mọi người trên giang hồ kính ngưỡng, ông chớ có nên hại mạng ông ta.
Bầu máu nóng của Kiều Phong dâng lên, lớn tiếng nói:
- Đúng lắm, Kiều Phong này cùng nhà họ Đơn không thù không oán, còn Trí Quang đại sư là người ta hằng kính ngưỡng. Các ngươi... các ngươi... muốn phế bỏ chức vị bang chủ của ta thì cũng được, ta bưng hai tay trao lại cho người khác, việc gì phải bịa chuyện vu miệt cho ta? Kiều mỗ... đã làm chuyện gì xấu xa mà các ngươi phải ép uổng ta như thế?
Mấy câu sau ông nói bằng giọng nghẹn ngào, mọi người nghe thấy không ai không nổi đồng tình. Chỉ nghe thấy trên người Trí Quang tiếng xương cốt kêu lên lục cục, biết rằng tính mạng ông ta chỉ trong đường tơ kẽ tóc, sống chết tùy thuộc vào một ý nghĩ của Kiều Phong. Ngoài tiếng gió thổi rì rào, tiếng giun dế kêu, tiếng cỏ xào xạc, tiếng thở của mọi người không một ai dám lên tiếng.
Một hồi sau, Triệu Tiền Tôn đột nhiên bật lên mấy tiếng cười khẩy nói:
- Thật tức cười quá đỗi! Người Hán thì đã hơn gì ai, mà người Khất Đan thì cũng đâu phải là heo là chó? Rõ ràng là người Khất Đan, việc chi phải nhận cho bằng được mình là người Hán, có đáng gì đâu? Đến cha mẹ ruột mình không thèm nhận, thật uổng cái danh nam tử hán đại trượng phu?
Kiều Phong trợn tròn đôi mắt hầm hầm nhìn ông ta hỏi lại:
- Ngươi bảo ta là người Khất Đan chăng?
Triệu Tiền Tôn đáp:
- Ta nào có biết. Có điều hôm đó trong trận chiến ngoài Nhạn Môn Quan, gã võ sĩ Khất Đan kia hình dáng mặt mày giống hệt ngươi. Hôm đó Triệu Tiền Tôn này sợ đến mất hồn mất vía, vỡ mật vỡ gan cho nên tướng mạo kẻ đối đầu, dù có một trăm năm nữa ta vẫn còn nhớ rõ. Trí Quang đại sư ôm đứa trẻ Khất Đan chính mắt ta trông thấy. Triệu Tiền Tôn này có khác gì xác chết biết đi, trên thế gian này ngoài Tiểu Quyên ra chẳng còn nhớ tới một ai, cũng chẳng còn nhớ chuyện gì. Ngươi làm hay không làm bang chủ Cái Bang có liên quan đếch gì tới ta, việc chó gì ta phải vu hãm cho ngươi?
Ta tự nhận là năm xưa có tham dự việc giết hại cha mẹ ngươi thì được cái mẹ gì cơ chứ? Kiều bang chủ, võ công Triệu Tiền Tôn này so với ngươi thì kém xa, nếu như ta không muốn sống thì chẳng lẽ đến tự sát cũng không biết hay sao?
Kiều Phong chầm chậm bỏ Trí Quang đại sư xuống, đầu ngón chân hất một cái đá văng thân thể to lớn của Đơn Quí Sơn ra, rơi xuống đất nghe bịch một cái. Đơn Quí Sơn nhún một cái đã đứng ngay được nhưng không bị thương chút nào.
Kiều Phong đưa mắt nhìn Trí Quang thấy ông thần sắc thản nhiên, không có vẻ gì giả vờ hay gian dối bèn hỏi:
- Rồi sau sao nữa?
Trí Quang đáp:
- Về sau thì ngươi tự biết rồi. Năm lên bảy tuổi ngươi đi hái hạt dẻ trong núi bị một con chó sói rượt, được một nhà sư chùa Thiếu Lâm cứu thoát, giết con ác lang trị thương cho ngươi, sau đó ngày ngày đến dạy võ, có phải vậy không?
Kiều Phong đáp:
- Đúng vậy! Thì ra chuyện này ông cũng biết.
Khi Huyền Khổ đại sư của chùa Thiếu Lâm truyền thụ võ công cho Kiều Phong, dặn ông không được tiết lộ cho ai biết, trên giang hồ ai cũng tưởng Kiều Phong là đệ tử đích truyền của Uông bang chủ Cái Bang, có biết đâu ông ta và chùa Thiếu Lâm có uyên nguyên rất sâu xa.
Trí Quang nói:
- Nhà sư Thiếu Lâm đó được “đàn anh đứng đầu” ủy thác nhờ ông ta dạy ngươi từ bé để cho ngươi khỏi lầm đường lạc lối. Vì việc này, ta và "đàn anh đứng đầu" cùng Uông bang chủ ba người đã tranh chấp dữ dội. Ta bảo là cứ để cho ngươi sống bình thường làm nghề nông mưu sinh, không phải học võ để rồi lại bị cuốn hút vào ân oán giang hồ. "Đàn anh đứng đầu" thì bảo là vì mình sai quấy với cha mẹ ngươi nên phải bồi dưỡng cho ngươi thành một nhân vật đại anh hùng.
Kiều Phong nói:
- Các ông... các ông có chuyện gì mà bảo là sai quấy? Người Hán và người Khất Đan giết hại lẫn nhau, có gì là phải hay không phải?
Trí Quang thở dài:
- Di văn trên vách đá ngoài ải Nhạn Môn đến nay cũng vẫn còn chưa mờ, sau này ngươi ra đó mà xem. "Đàn anh đứng đầu" vốn cũng đã có chủ ý, Uông bang chủ cũng ngả theo một mình ta không thể nào chống lại được. Đến khi ngươi mười sáu tuổi mới gặp Uông bang chủ thu ngươi làm đồ đệ, rồi về sau biết bao nhiêu cơ duyên gặp gỡ, ngươi thiên tư trác tuyệt nên càng hết sức vươn lên, người thường không sao theo kịp, thế nhưng nếu không có "đàn anh đứng đầu" và Uông bang chủ giúp đỡ e rằng cũng không dễ dàng đến thế đâu?
Kiều Phong cúi đầu ngẫm nghĩ, cuộc đời mình gặp biết bao nguy nan nhưng rồi phùng hung hóa cát nên chưa hề gặp chuyện gì nặng nề, lại biết bao lương cơ đưa đẩy, không cầu mà được, trước đây vẫn tưởng mình có số đỏ, gặp vận may bây giờ nghe Trí Quang đại sư nói mới tự hỏi phải chăng có người dấu mặt giúp đỡ mà mình tuyệt nhiên không hay biết gì? Trong lòng ông thấy bàng hoàng: “Nếu lời của nhà sư là thật thì ta là người Khất Đan chứ đâu phải Hán nhân. Uông bang chủ nào có phải ân sư của ta mà là kẻ thù giết cha giết mẹ. Người anh hùng đứng sau lưng ám trợ ta cũng nào phải tốt lành gì, chẳng qua chỉ vì thẹn với lương tâm nên tìm cách chuộc tội đấy thôi. Không, không! Người Khất Đan hung tàn bạo ngược, là kẻ tử địch của người Hán chúng ta, ta làm sao có thể là người Hồ Lỗ được?”.
Lại nghe Trí Quang kể tiếp:
- Uông bang chủ lúc đầu hết sức đề phòng, về sau thấy ngươi học võ tiến bộ thật nhanh, khẳng khái hào hiệp, đối với người khác thật nhân hậu, đối với ông ta kính cẩn tôn sùng, làm việc gì cũng hợp với tâm ý ông ta nên dần dần thực lòng thương yêu ngươi.
Về sau ngươi công lao mỗi lúc một nhiều, uy danh mỗi lúc một lớn, trong Cái Bang trên dưới ai nấy đều kính phục, ngay cả người ngoài bang cũng nắm chắc ngươi sẽ thành bang chủ.
Thế nhưng Uông bang chủ vẫn dùng dằng chưa quyết định cũng chỉ vì ngươi là giống Khất Đan. Ông ta thử ngươi ba việc khó, ngươi đều hoàn thành chu đáo, nhưng phải để đến khi ngươi lập được bảy công lao lúc đó mới đem Đả Cẩu Bổng ra truyền thụ.
Năm đó Thái Sơn đại hội, ngươi đánh bại chín kẻ cường địch của Cái Bang, khiến cho bang ăn mày uy chấn thiên hạ, ông ta mới không còn do dự nữa lập ngươi làm bang chủ Cái Bang. Cứ như lão nạp biết, trong mấy trăm năm qua, chưa có vị bang chủ Cái Bang nào phải gian nan như thế.
Kiều Phong cúi đầu đáp:
- Tôi vẫn tưởng ân sư Uông bang chủ có ý rèn luyện cho tôi, bắt tôi phải trải qua nhiều gian khổ để có thể đảm đương việc lớn, có ngờ đâu... có ngờ đâu...
Ông nói tới đây trong bụng tin cũng đã đến bảy tám phần mười. Trí Quang nói:
- Ta cũng chỉ biết tới đó mà thôi. Ngươi đứng ra làm bang chủ Cái Bang rồi, trên giang hồ đồn đãi ai cũng bảo ngươi hành hiệp trượng nghĩa, tạo phúc cho lê dân, xử sự công chính, chỉnh đốn Cái Bang trở nên hưng vượng, ta trong lòng cũng mừng thầm.
Lại nghe ngươi mấy lần phá hỏng gian mưu của Khất Đan, giết được mấy nhân vật anh hùng của họ, cái điều cố kỵ “dưỡng hổ di hoạn” năm xưa có khác gì người nước Kỷ lo trời sập. Việc đó đáng ra vĩnh viễn không nên đề cập tới, nào ngờ lại có ai đó tìm ra? Việc này nào có hay ho gì cho cả Cái Bang lẫn thân danh ngươi đâu?
Nói tới đây ông thở dài một tiếng, sắc mặt buồn rười rượi. Từ trưởng lão nói:
- Đa tạ Trí Quang đại sư kể lại chuyện xưa khiến cho mọi người tưởng như chính mình đã trải qua vậy. Phong thư này...
Ông giơ tay đưa lá thư ra nói tiếp:
-... là do “đại hiệp đứng đầu” kia viết cho Uông bang chủ, trong thư hết sức ngăn trở Uông bang chủ không nên truyền ngôi vị cho Kiều bang chủ. Kiều bang chủ, chắc ông không ngại xem qua cho biết chứ gì?
Nói xong đưa lá thư ra cho Kiều Phong. Trí Quang nói:
- Để ta xem trước, có phải thư thật hay là thư giả?
Nói xong ông đưa tay cầm lá thư, đọc qua một lượt rồi nói:
- Đúng vậy, quả nhiên là thủ bút của "đàn anh đứng đầu".
Ông ta vừa nói vừa dụng kình lên ngón tay trái, xé ngay chỗ thự danh ở cuối lá thư, bỏ tọt vào mồm, lưỡi cuốn một cái nuốt chửng vào bụng. Khi Trí Quang xé lá thư ông đã tiến tới gần đống lửa thêm mấy bước cách Kiều Phong khá xa, lại dường như không đủ ánh sáng nên đưa tờ giấy lên gần mắt thành ra khi bỏ vào miệng, lá thư và miệng chỉ cách nhau gang tấc. Kiều Phong không thể ngờ vị lão tăng đức cao vọng trọng kia lại giở trò giảo hoạt, giận dữ rống lên một tiếng, tay trái lăng không đánh ra trúng ngay huyệt đạo nhà sư, tay phải đưa ra giựt tờ giấy nhưng vẫn chậm mất một bước, chỗ ký tên đằng cuối lá thư đã bị ông ta nuốt rồi. Kiều Phong lại đánh ra một chưởng giải huyệt cho ông ta hậm hực hỏi:
- Ông... ông làm gì thế?
Trí Quang mỉm cười nói:
- Kiều bang chủ, một khi ông biết rõ thân thế mình rồi thể nào chẳng muốn báo thù cho cha mẹ. Uông bang chủ đã qua đời khỏi cần nói tới. Tên tuổi vị "đàn anh đứng đầu" này, lão nạp không muốn cho ông biết. Năm xưa lão nạp cũng có tham dự vụ phục kích lệnh tôn lệnh đường, bao nhiêu tội nghiệt, lão nạp xin một mình gánh chịu hết, thí chủ muốn lóc thịt lột da gì cũng được.
Kiều Phong thấy ông ta lông mày rủ xuống, đứng cúi đầu, thần sắc thật trang nghiêm tuy lòng bi phẫn nhưng cũng cảm thấy kính trọng bèn nói:
- Việc thực hay hư, lúc này ta chưa thể biết chắc. Muốn giết ông đâu phải chỉ một lúc này mà thôi.
Nói xong ông đưa mắt lườm Triệu Tiền Tôn. Triệu Tiền Tôn nhún vai, dường như không coi vào đâu nói:
- Quả đúng như thế! Ta cũng ở trong số đó, món nợ này ta cũng chịu một phần, khi nào ngươi thích thì cứ ra tay giết ta.
Đàm công lớn tiếng nói:
- Kiều bang chủ, việc gì cũng nên suy nghĩ cho chín, hành sự không nên cẩu thả. Nếu nói đến việc phân tranh Hồ Hán, hào kiệt Trung Nguyên ai ai cũng là địch cả.
Triệu Tiền Tôn tuy là tình địch của ông ta nhưng bây giờ ông lại lên tiếng che chở. Kiều Phong cười khẩy một tiếng, trong bụng rối bời không biết phải đối đáp ra sao, cầm tờ giấy dưới ánh lửa xem thấy viết:
Kiếm Nhiêm ngô huynh,
Qua mấy đêm dài đàm luận, cái ý truyền vị của ngô huynh vẫn không thay đổi. Ta sau mấy ngày suy nghĩ thấy việc đó quả không nên. Kiều quân tài nghệ siêu quần, công lao vĩ đại, lại là người can đảm hăng say, không phải chỉ là người nổi bật trong quí bang mà đến võ lâm đồng đạo khắp đất Thần Châu cũng không ai sánh kịp.
Tài nghệ đó kế thừa chức vị của ngô huynh, rồi đây Cái Bang thanh danh ngày càng vang dội là điều không còn ngờ gì nữa.
Kiều Phong đọc đến đây thấy vị tiền bối này hết sức coi trọng mình không khỏi trong lòng cảm kích, liền đọc tiếp xuống dưới:
Thế nhưng trận huyết chiến ngoài ải Nhạn Môn thật là kinh tâm động phách, ta vẫn ngày ngày canh cánh không quên. Đứa trẻ đó không phải cùng tộc loại với mình, cả cha lẫn mẹ đều chết dưới tay của hai ta, mai đây không biết chỗ xuất thân của mình thì không nói làm gì, còn không thì Cái Bang sẽ bị một tay y tiêu diệt, võ lâm Trung Nguyên sẽ gặp một hạo kiếp vô cùng to lớn. Đời nay kẻ có võ công ngang ngửa với đứa trẻ này, thực chẳng một ai. Việc nội bộ của quí bang, đáng lẽ người ngoài không nên xen vào, nhưng ông với ta giao tình chẳng phải bình thường, việc này lại liên quan quá lớn, mong ông suy nghĩ cho thật kỹ.
Bên dưới chỗ thự danh người viết đã bị Trí Quang xé mất rồi. Từ trưởng lão thấy Kiều Phong đọc xong đứng đờ đẫn không nói lời nào, lại đưa thêm một tờ giấy khác nói:
- Đây là thư của Uông bang chủ, chắc ông nhận ra bút tích của ông ta.
Kiều Phong đưa tay cầm lấy thấy trên lá thư viết rằng:
Truyền cho Cái Bang Mã phó bang chủ, Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão cùng tất cả các trưởng lão:
Kiều Phong như có hành vi thân Liêu phản Hán, trợ Khất Đan chống lại nhà Đại Tống thì toàn bang phải lập tức hợp lực giết y ngay, không được bỏ lỡ. Hạ độc hành thích tất cả đều dùng được, người hạ thủ có công mà không có tội.
Uông Kiếm Thông thân bút.
Bên dưới có đề ngày như sau:
Đại Tống Nguyên Phong lục niên, ngũ nguyệt sơ thất nhật.
Kiều Phong nhớ thật rõ ràng, đây chính là ngày mình tiếp nhiệm bang chủ Cái Bang. Mấy hàng chữ này đích thị ân sư Kiếm Thông thủ bút, nếu thế thì không còn hoài nghi gì nữa. Ông nghĩ đến sư phụ đãi mình chẳng khác gì cha con, giáo huấn đã nghiêm mà cũng yêu thương tha thiết ngờ đâu đúng ngày mình tiếp nhiệm bang chủ Cái Bang lại ngấm ngầm viết tờ di lệnh này. Ông thấy trong lòng chua xót, nước mắt chảy ròng ròng, từng giọt từng giọt rơi xuống thủ dụ của Uông bang chủ cầm trên tay.
Từ trưởng lão chậm rãi nói:
- Kiều bang chủ đừng trách chúng tôi vô lễ. Thủ dụ của Uông bang chủ vốn chỉ một mình Mã phó bang chủ biết được mà lại tàng trữ thật kỹ, xưa nay chưa hề nói với ai. Trong những năm qua, bang chủ hành sự quang minh lỗi lạc, không hề có chuyện thông Liêu phản Tống, trợ Khất Đan để áp bức Hán nhân, di lệnh của Uông bang chủ không cần phải dùng đến.
Đến khi Mã phó bang chủ đột nhiên chết thảm, Mã phu nhân mới tìm thấy di lệnh này. Mọi người ai nấy nghi ngờ Mã phó bang chủ bị Mộ Dung công tử giết hại, nếu bang chủ vì Đại Nguyên huynh đệ mà báo thù này thì thân thế lai lịch của bang chủ quyết không ai nhắc đến. Lão hủ suy nghĩ đã nhiều, vì đại cục đã toan hủy lá thư này cùng di lệnh của Uông bang chủ, có điều... có điều...
Ông ta nói đến đây đưa mắt nhìn Mã phu nhân nói:
- Phần vì Mã phu nhân đau lòng muốn báo thù cho chồng, không muốn để cho Đại Nguyên huynh đệ chết chẳng yên mồ mối oan phải chìm sâu đáy nước. Thứ nữa Kiều bang chủ lại bảo vệ cho người Hồ, việc làm xem ra nguy cho bản bang...
Kiều Phong ngạc nhiên hỏi lại:
- Ta bảo vệ cho người Hồ ư? Chuyện đó ở đâu mà có?
Từ trưởng lão đáp:
- Hai chữ “Mộ Dung” vốn là họ của người Hồ. Họ Mộ Dung là hậu duệ Tiên Ti, với Khất Đan cũng cùng một giống, đều là Hồ Lỗ Di Địch cả.
Kiều Phong đáp:
- Ồ! Thì ra là thế! Ta nào có biết.
Từ trưởng lão tiếp tục:
- Thứ ba, việc Kiều bang chủ là người Khất Đan trong bang nhiều anh em đã biết rồi, biến loạn đã sinh có dấu cũng không ích lợi gì.
Kiều Phong ngẩng đầu nhìn trời thở dài một tiếng, những nghi nan nặng trĩu trong lòng từ chập tối đến giờ bây giờ mới rõ nguồn cơn nên quay sang hỏi Toàn Quan Thanh:
- Toàn Quan Thanh, ngươi biết ta là hậu duệ Khất Đan nên mới phản ta, có phải vậy không?
Toàn Quan Thanh đáp:
- Đúng thế.
Kiều Phong hỏi thêm:
- Tống Hề Trần Ngô bốn đại trưởng lão nghe lời ngươi nên định giết ta chứ gì?
Toàn Quan Thanh đáp:
- Quả vậy. Có điều bọn họ nửa tin nửa ngờ không quyết định được, đến lúc việc tới nơi lại rụt đầu rụt cổ.
Kiều Phong hỏi:
- Thân thế đầu mối của ta, ngươi từ đâu mà biết được?
Toàn Quan Thanh đáp:
- Việc này có liên quan đến người ngoài xin tha thứ cho tại hạ không thể phụng cáo. Cũng nên hiểu rằng cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, bao giấy không gói được lửa dù ông có đậy điệm cách nào rồi cũng có người biết đến. Chấp Pháp trưởng lão cũng đã biết rồi.
Trong đầu Kiều Phong lúc này biết bao ý niệm dâng lên chẳng khác gì sóng biển, khi thì nghĩ rằng: “Bọn chúng nổi lòng đố kỵ, đặt ra những chuyện hoang đường vu hãm cho ta. Kiều Phong này dù thế cô lực đơn nhưng cũng quyết chiến đấu tới cùng không chịu khuất phục”. Thế nhưng ông lại nghĩ ngay: “Thủ dụ của ân sư quả thực đích xác rõ ràng, Trí Quang đại sư đức cao vọng trọng, không ân không oán với ta việc gì phải đặt ra cái quỉ kế này? Từ trưởng lão là nguyên lão trọng thần của bản bang, lẽ nào lại có ý muốn khuynh loát bản bang? Thiết Diện Phán Quan, Đàm công, Đàm bà là những bậc tiền bối có tên tuổi trong võ lâm, gã Triệu Tiền Tôn kia tuy điên điên khùng khùng nhưng cũng đâu phải là kẻ vô danh tiểu tốt. Chúng khẩu đồng từ như thế, lẽ nào còn giả được hay sao?”.
Quần cái nghe Trí Quang, Từ trưởng lão các người nói ra như thế, tâm tình hỗn loạn. Nhiều người đã từng nghe nói Kiều Phong là giòng giống Khất Đan nhưng chỉ bán tín bán nghi còn những người khác thì bây giờ mới biết. Ai nấy thấy chứng cớ rõ ràng, ngay cả Kiều Phong dường như cũng đã tin là thế.
Kiều Phong trước nay đối với thuộc hạ vô cùng ân nghĩa, tài đức võ công ai nấy đều khâm phục, có ai ngờ ông lại là con cháu giống Khất Đan. Liêu quốc và Đại Tống cừu oán thực sâu xa, người trong Cái Bang chết về tay người Liêu bao nhiêu năm qua nhiều vô số kể. Để cho một người Khất Đan làm bang chủ Cái Bang thì là việc không thể nào nghĩ đến được. Thế nhưng bảo rằng đuổi ông ta ra khỏi bang thì cũng không ai dám mở mồm. Nhất thời khu rừng hạnh lặng như tờ, chỉ nghe thấy tiếng thở nặng nề của mọi người.
Đột nhiên có tiếng đàn bà trong trẻo cất lên:
- Các vị bá bá, thúc thúc, tiên phu bất hạnh qua đời, không biết do ai hạ thủ lúc này thật chưa thể nào đoán chắc được. Nghĩ đến tiên phu xưa nay vốn mẫn cán ổn trọng, không được khéo mồm khéo miệng, nhưng trên giang hồ thật chẳng thù oán với ai, thiếp không sao nghĩ ra được vì cớ nào mà bị người ta giết chết. Thế nhưng người đời vẫn bảo rằng: “Mạn tàng hối đạo” không biết có phải vì tiên phu trong tay cầm giữ vật trọng yếu nên người ta không lấy được thì không yên lòng? Người ta sợ tiên phu tiết lộ cơ mật, làm hỏng việc lớn nên mới giết đi để bịt miệng chăng?
Người vừa nói chính là di sương của Mã Đại Nguyên Mã phu nhân. Mấy câu đó ý tứ thật rõ ràng, nói thẳng ra là người giết Mã Đại Nguyên là Kiều Phong mà lý do hành hung chỉ vì muốn che đậy những chứng cứ ông ta là người Khất Đan.
Kiều Phong chậm rãi quay đầu lại, nhìn thẳng vào người đàn bà mặc đồ toàn trắng, thân hình nhỏ nhắn dáng điệu ẻo lả khép nép kia hỏi lại:
- Phu nhân nghi ta giết hại Mã phó bang chủ hay sao?
Mã phu nhân trước nay vẫn quay lưng lại, mắt nhìn xuống đất, lúc này đột nhiên ngửng đầu lên nhìn thẳng vào Kiều Phong. Đôi mắt nàng trong vắt như bảo thạch lấp lánh trong đêm tối khiến Kiều Phong hơi bối rối, nghe nàng nói:
- Thiếp là kẻ nữ lưu vô tri vô thức, nay phải xuất đầu lộ diện quả là không phải chút nào, đâu dám loạn ngôn kết tội ai? Có điều tiên phu chết thật oan uổng, chỉ mong các vị bá bá thúc thúc nghĩ đến chút tình xưa, tra xét cho minh bạch để rửa hận báo thù cho tiên phu.
Nàng ta nói xong phục xuống hướng về Kiều Phong khấu đầu. Nàng ta không một câu nào nói Kiều Phong là hung thủ nhưng chỗ nào cũng đổ riệt lên đầu ông. Kiều Phong thấy bà ta lạy mình, trong bụng tuy giận nhưng cũng không thể nào phát tác, chỉ đành quì xuống hoàn lễ đáp:
- Xin tẩu tẩu đứng lên.
Trong rừng hạnh đột nhiên có một giọng trong trẻo cất lên:
- Mã phu nhân, trong lòng tôi có một điểm nghi ngờ, liệu có thể hỏi phu nhân một câu chăng?
Mọi người quay về phía phát ra thanh âm thấy đó là một thiếu nữ mặc áo dài màu hồng nhạt, chính là A Châu. Mã phu nhân hỏi lại:
- Cô nương có chuyện gì muốn tra vấn tôi?
A Châu đáp:
- Tra vấn thì quả là không dám. Tiểu nữ nghe phu nhân nói là Mã tiền bối dùng xi hơ lửa gắn chặt phong di thư này lại, trước khi Từ trưởng lão mở ra, vết khằn vẫn còn nguyên. Như thế có nghĩa là trước khi Từ trưởng lão mở ra thì chưa một ai được đọc nội dung lá thư đó chớ gì?
Mã phu nhân đáp:
- Chính thế.
A Châu hỏi tiếp:
- Như thế thì lá thư của “đại hiệp đàn anh” và di lệnh của Uông bang chủ, ngoài Mã tiền bối ra vốn dĩ không một ai biết đến, những câu “mạn tàng hối đạo, sát nhân diệt khẩu” kia xem ra không phải.
Mọi người nghe vậy ai ai cũng cho là có lý. Mã phu nhân hỏi:
- Cô nương là ai? Sao lại đến can thiệp vào đại sự trong bang của chúng tôi?
A Châu đáp:
- Chuyện lớn trong quí bang, một đứa con gái nhỏ như tiểu nữ có đâu dám can dự? Ngặt là các vị có ý vu hãm công tử gia của chúng tôi nên tiểu nữ đành phải đứng ra phân biện.
Mã phu nhân hỏi lại:
- Thế công tử gia của cô nương là người nào? Là Kiều bang chủ chăng?
A Châu mỉm cười lắc đầu:
- Không phải, đó là Mộ Dung công tử.
Mã phu nhân buột miệng:
- Ồ, thì ra là thế.
Nàng ta không để ý tới A Châu nữa, quay sang nói với Chấp Pháp trưởng lão:
- Bạch trưởng lão, bang qui của chúng ta vững chãi tày non, nếu như bản thân trưởng lão phạm tội thì xử thế nào?
Những bắp thịt trên mặt Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính hơi giựt nhẹ, run run đáp:
- Đã biết pháp luật mà còn phạm pháp thì tội nặng thêm một bậc.
Mã phu nhân hỏi tiếp:
- Thế còn người phẩm vị còn cao hơn cả trưởng lão mà phạm bang qui thì sao?
Bạch Thế Kính biết bà ta ám chỉ ai, không khỏi liếc mắt nhìn Kiều Phong một cái đáp:
- Bang qui của bản bang là do tổ tông qui định, không phân thứ bậc tôn ti, hễ đã phạm tội thì đều như nhau cả. Có công cùng thưởng, có tội cùng phạt.
Mã phu nhân nói:
- Cô nương đây nghi ngờ chí phải, lúc đầu tôi cũng nghĩ như thế. Thế nhưng trước hôm tiện thiếp nhận được tin buồn của tiên phu một ngày, đêm hôm đó có kẻ lẻn vào nhà ăn trộm.
Mọi người ai nấy kinh ngạc, có kẻ hỏi ngay:
- Ăn trộm ư? Có mất gì không? Có chết ai không?
Mã phu nhân đáp:
- Không chết ai cả. Tặc tử dùng ba nén hương mê xông cho tiện thiếp và hai tì nữ ngã lăn ra, lục tung tất cả các hòm rương trong nhà, lấy mất độ mươi lạng bạc. Ngày hôm sau thiếp mới nghe tin tiên phu đã táng mạng rồi nên đâu có còn tâm tư nào mà nhớ tới chuyện trộm đạo tiền tài? Cũng may tiên phu dấu phong thư này ở một nơi cực kỳ kín đáo nên mới không bị đứa ăn trộm kia lấy đi mà hủy mất.
Mấy câu đó lại càng rõ ràng hơn, chỉ đích danh Kiều Phong tự mình hay sai người đến nhà Mã Đại Nguyên ăn trộm lá thư. Nếu đã định lấy thư ắt là đã biết nội dung lá thư nói gì, âm mưu sát nhân diệt khẩu kia hiển nhiên đã được phô bày. Còn như làm sao ông ta biết được nội dung lá thư, rất có thể vị “đại hiệp đàn anh”, Uông bang chủ hay Mã phó bang chủ vô tình nói hớ ra cũng đâu có phải là chuyện lạ.
A Châu nhất định rửa oan cho Mộ Dung công tử, cũng không muốn Kiều Phong phải liên quan nói tiếp:
- Ăn trộm vặt vào nhà lấy mươi lạng bạc cũng là chuyện thường, chẳng qua lại xảy ra đúng lúc đó thôi.
Mã phu nhân đáp:
- Cô nương nói phải lắm, lúc đầu ta cũng nghĩ như thế. Thế nhưng về sau tại nơi cửa sổ kẻ trộm ra vào, dưới chân tường ta có nhặt được một vật của đứa gian vội vàng đánh rơi. Ta vừa nhìn thấy vật này, trong bụng kinh hoảng biết ngay chuyện thật chẳng vừa.
Tống trưởng lão hỏi:
- Vật đó là vật gì thế? Làm sao mà lại chuyện thật chẳng vừa?
Mã phu nhân chậm rãi lấy từ trong bọc đeo sau lưng ra một vật dài chừng bảy tám tấc, đưa cho Từ trưởng lão nói:
- Xin các vị bá bá thúc thúc chủ trì cho.
Từ trưởng lão vừa cầm lấy vật đó, nàng liền phục xuống đất khóc òa lên thật thảm thiết. Mọi người quay sang Từ trưởng lão thấy ông ta mở vật đó ra, thì ra là một cái quạt xếp. Từ trưởng lão trầm giọng đọc bài thơ đề trên chiếc quạt:
Căm căm tuyết đổ Nhạn Môn,
Cỏ bồng theo cát từng cơn mịt mùng.
Làm trai quyết lập đại công,
Dẹp tan Di Địch báo vòng quốc ân.
Sóc tuyết phiêu phiêu khai Nhạn Môn,
Bình sa lịch loạn quyển bồng căn.
Công danh sỉ kế cầm sinh số,
Trực trảm Lâu Lan báo quốc ân.
Kiều Phong vừa nghe bài thơ đó kinh hoảng không để đâu cho hết, chăm chú nhìn chiếc quạt thấy mặt bên kia vẽ bức tranh “Tráng Sĩ Xuất Tái Sát Địch Đồ”, chính là vật của mình. Bài thơ đó chính là nét bút của ân sư Uông Kiếm Thông, còn bức tranh thì chính do Từ trưởng lão vẽ, tuy không khéo lắm nhưng đầy vẻ hiệp nghĩa, lộ được nét khẳng khái hào hùng của người tráng sĩ trong cơn gió bấc, tuyết đổ mênh mang. Cái quạt đó do ân sư tặng cho năm sinh nhật hai mươi lăm tuổi, trước nay ông quí nó lắm vẫn cất kỹ một nơi, không hiểu sao lại lạc vào trong nhà Mã Đại Nguyên? Vả lại tính tình ông hào tráng, có bao giờ đem theo quạt trong người?
Từ trưởng lão lật qua lật lại chiếc quạt, nhìn kỹ bức tranh, chính là do tay mình vẽ nên, thở dài một tiếng, chép miệng:
- Chẳng phải nòi giống ta, tâm tư quả cũng có khác. Uông bang chủ ơi là Uông bang chủ, việc này ông đã nhầm lẫn lớn rồi.
Kiều Phong từ khi nghe thấy mình là giòng giống Khất Đan, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Đã mươi năm nay lúc nào ông cũng chăm chăm nghĩ kế làm sao tiêu diệt nước Liêu, giết kẻ Khất Đan Hồ Lỗ, đột nhiên gặp phải chuyện này, tuy trong đời đã từng gặp bao nhiêu sóng to gió cả nhưng cũng tay chân luống cuống không biết phải làm sao. Thế nhưng khi Mã phu nhân hết điều nọ đến điều kia đổ cho mình âm mưu giết Mã Đại Nguyên, rồi chiếc quạt của mình xuất hiện, lòng ông trở lại bình tĩnh, chỉ trong một thoáng bao nhiêu chuyện nghĩ ra trong đầu: “Có kẻ ăn cắp chiếc quạt để giá họa cho mình, chuyện này đừng hòng mà làm khó ta được”. Ông quay sang Từ trưởng lão:
- Từ trưởng lão, cái quạt đó là của tôi.
Những người vai vế tương đối cao trong Cái Bang khi nhìn thấy chiếc quạt, nghe Từ trưởng lão đọc bài thơ đã biết ngay là của Kiều Phong, còn những kẻ địa vị thấp hơn thì không biết, đến khi nghe Kiều Phong tự nhận ai nấy đều kinh ngạc. Từ trưởng lão trong lòng cũng hết sức xúc động, lẩm bẩm:
- Uông bang chủ coi ta là kẻ tâm phúc, vậy mà bí mật để lại di mệnh cũng chẳng cho ta hay.
Mã phu nhân đứng thẳng người lên nói:
- Từ trưởng lão, Uông bang chủ không nói cho ông hay cũng là may cho ông đấy.
Từ trưởng lão ngạc nhiên không hiểu hỏi lại:
- Sao thế?
Mã phu nhân buồn bã đáp:
- Trong Cái Bang chỉ một mình Đại Nguyên biết nên mới gặp phải chuyện không may, nếu như ông... ông cũng biết chắc gì đã qua được kiếp nạn này.
Kiều Phong dõng dạc hỏi:
- Các vị có điều gì muốn nói nữa không?
Đôi mắt ông nhìn Mã phu nhân chuyển sang Từ trưởng lão, rồi qua Bạch Thế Kính, Truyền Công trưởng lão, từng người từng người. Ai nấy đều lặng thinh không đáp. Ông đợi một lát thấy không ai lên tiếng mới nói:
- Kiều mỗ thân thế lai lịch thật đáng hổ thẹn xiết bao, chính ta cũng chưa từng biết đến. Thế nhưng đã có bao nhiêu vị tiền bối đưa ra chứng cớ, Kiều mỗ sẽ hết sức tìm hiểu chân tướng thế nào. Chức vụ bang chủ Cái Bang Kiều mỗ xin nhường lại cho người hiền tài khác.
Nói đến đây ông đưa tay cầm chiếc túi dài đeo bên chân phải, lấy ra một chiếc gậy trúc xanh biếc sáng bóng như gương, chính là Đả Cẩu Bổng, tín vật của bang chủ Cái Bang, hai tay nâng lên cao nói:
- Chiếc gậy này Uông bang chủ trao cho Kiều mỗ để chấp chưởng Cái Bang, tuy không làm được chuyện gì nhưng cũng chưa gây ra tội lớn. Hôm nay thoái vị, vị anh hiền nào nguyện ý gánh vác chức vị này, xin đứng ra nhận chiếc gậy.
Qui củ của Cái Bang từ trước tới nay chức vụ tân bang chủ phải do bang chủ đương nhiệm dùng Đả Cẩu Bổng trao cho, trước khi giao gậy phải dạy Đả Cẩu Bổng Pháp. Cũng có khi cựu bang chủ đột nhiên qua đời, nhưng người kế thừa đã dự lập rồi, Đả Cẩu Bổng cũng đã truyền thụ thành thử chức vụ bang chủ chưa từng tranh chấp. Kiều Phong đang tuổi thanh niên, có dự định gì cũng phải hai chục năm nữa mới tính tới việc tuyển chọn trong bang một kẻ thiếu niên anh hiệp truyền thụ Đả Cẩu Bổng Pháp. Bây giờ mọi người trong Cái Bang thấy ông đứng giữa đám người, hiên ngang khí khái cầm Đả Cẩu Bổng giơ lên, nào có ai dám đứng ra nhận cây bổng?
Kiều Phong liên tiếp hỏi ba lần, trong Cái Bang không một ai trả lời, bèn nói:
- Kiều mỗ thân thế chưa minh bạch, chức vị bang chủ nói cách nào cũng không thể đảm đương được nữa. Từ trưởng lão, Truyền Công, Chấp Pháp hai vị trưởng lão, vật trấn bang chi bảo Đả Cẩu Bổng này xin ba vị cùng nhau bảo quản. Về sau khi định được bang chủ, ba vị trao lại cũng không muộn.
Từ trưởng lão nói:
- Như vậy cũng phải. Còn Đả Cẩu Bổng Pháp mình sẽ bàn đến sau.
Ông tiến lên toan nhận lấy chiếc gậy. Tống trưởng lão đột nhiên lớn tiếng nói:
- Hãy khoan!
Từ trưởng lão ngạc nhiên dừng lại hỏi:
- Tống huynh đệ có chuyện gì muốn nói?
Tống trưởng lão nói:
- Mỗ xem Kiều bang chủ không phải người Khất Đan.
Từ trưởng lão hỏi lại:
- Làm sao biết được?
Tống trưởng lão đáp:
- Mỗ xem ông ta không giống.
Từ trưởng lão ngạc nhiên:
- Sao lại không giống?
Tống trưởng lão đáp:
- Người Khất Đan cùng hung cực ác, tàn bạo âm độc. Kiều bang chủ là một vị anh hùng hảo hán đại nhân đại nghĩa. Mới rồi bọn ta phản ông ta, ông vẫn cam nguyện chịu đâm vào mình chảy máu xá tội phản nghịch cho mọi người. Người Khất Đan đâu có thể như thế được?
Từ trưởng lão nói:
- Y từ bé được cao tăng chùa Thiếu Lâm và Uông bang chủ dưỡng dục nên đã thay đổi tập tính hung tàn của Khất Đan rồi.
Tống trưởng lão cãi:
- Nếu tập tính đã thay đổi thì đâu còn là người xấu nữa, làm bang chủ của chúng ta có gì là không được? Ta xem trong bang không có ai anh hùng như ông ta. Nếu người khác làm bang chủ e rằng họ Tống này không phục.
Những người có cùng tâm tư như Tống trưởng lão cũng khá đông. Kiều Phong ân đức thấm nhuần, nay chỉ bằng lời một vài người, một vài tờ giấy đem ra làm cớ phế bỏ chức bang chủ của ông ta, rất nhiều bang chúng vốn dĩ trung thành với ông không phục. Tống trưởng lão mở đầu nói ra chuyện đó, trong đám ăn mày lập tức có mấy chục người nhao nhao lên:
- Có kẻ âm mưu hãm hại Kiều bang chủ, bọn ta không thể dễ tin lời người ta.
- Chuyện đã mấy chục năm qua, chỉ bằng mấy lời nói bá vơ của vài người, ai biết là thực hay giả?
- Chức vụ bang chủ đâu phải dễ dàng đổi thay như thế được?
- Ta nhất định một lòng theo Kiều bang chủ, muốn thay bang chủ khác, có chặt đầu ta ta cũng không phục.
Hề trưởng lão lớn tiếng nói:
- Ai tình nguyện đi theo Kiều bang chủ thì theo ta đứng sang bên này.
Ông ta tay trái nắm Tống trưởng lão, tay phải nắm Ngô trưởng lão đi qua phía đông. Kế đó Đại Nhân, Đại Tín, Đại Nghĩa phân đà ba đà chủ cũng đứng sang. Các đà chủ đã qua rồi, thuộc hạ bang chúng cũng lục tục đi theo. Toàn Quan Thanh, Trần trưởng lão, Truyền Công trưởng lão cùng Đại Trí, Đại Dũng hai đà chủ ở lại tại chỗ không nhúc nhích. Thế là Cái Bang biến thành hai phe, phía bên đông phải đến năm phần, ba phần đứng lại còn một phần thì do dự không biết phải theo bên nào. Chấp Pháp trưởng lão trước nay hành sự chém đinh chặt sắt, nói một là một nói hai là hai, lúc này cũng phân vân không quyết định được.
Toàn Quan Thanh nói:
- Các anh em, Kiều bang chủ tài lược hơn người, quả thực anh hùng có ai là không bội phục? Thế nhưng chúng ta đều là dân nhà Đại Tống làm sao có thể nghe lệnh một người Khất Đan? Tài nghệ Kiều Phong càng cao thì lại càng thêm nguy hiểm.
Hề trưởng lão kêu lên:
- Nói thối bỏ mẹ! Cái con mẹ ngươi chứ! Ta coi cái bộ dạng ngươi mười phần giống Khất Đan đến chín.
Toàn Quan Thanh lớn tiếng đáp:
- Tất cả chúng ta đều là những hảo hán tận trung báo quốc, lẽ nào cam tâm đi làm chó săn đầy tớ cho người ngoài hay sao?
Mấy câu đó của y quả là hiệu lực, trong số những người chạy sang phía đông có đến mươi người chạy trở lại phía tây. Người phía đông liền chửi mắng giằng co, nhốn nháo cả lên lập tức kẻ dùng quyền cước, kẻ dùng binh khí có đến mấy chục người đấm đá túi bụi. Các trưởng lão lớn tiếng can gián nhưng người nào cũng cho phần phải về mình, Ngô trưởng lão và Trần trưởng lão chỉ mặt nhau rủa sả tưởng như sắp động thủ đến nơi.
Kiều Phong dõng dạc nói:
- Chức vụ bang chủ Cái Bang, ta quyết không đảm đương được nữa...
Tống trưởng lão liền xen vào:
- Bang chủ chớ có nản lòng...
Kiều Phong lắc đầu:
- Không phải ta nản lòng. Chuyện khác thì bảo người ta âm mưu vu hãm, chuyện này chính thủ bút của ân sư Uông bang chủ thì không ai còn có thể giả được.
Ông cao giọng nói lớn:
- Cái Bang là đại bang lớn nhất trên giang hồ, uy danh lừng lẫy trong võ lâm có ai là không kính trọng? Nếu như tự mình tàn sát lẫn nhau chẳng khiến cho người ngoài cười đến vẹo cả mồm ra hay sao? Kiều Phong này trước khi ra đi có một lời phụng cáo, nếu kẻ nào một quyền một cước đánh anh em trong bang, ấy là đại tội nhân của bản bang đó.
Cái Bang xưa nay vẫn coi trọng nghĩa khí, nghe ông ta nói mấy câu đó ai nấy đều hổ thẹn ngầm. Bỗng có tiếng đàn bà cất lên:
- Nếu như giết hại anh em trong bang thì sao?
Người nói câu đó chính là Mã phu nhân. Kiều Phong đáp:
- Giết người thì đền mạng, tàn hại anh em thì sẽ bị muôn đời thống hận.
Mã phu nhân nói:
- Vậy thì hay lắm.
Kiều Phong nói:
- Mã phó bang chủ quả thực bị ai giết, kẻ nào ăn cắp cái quạt để hãm hại Kiều mỗ, thể nào cũng phải tra xét cho tới ngọn tới ngành. Mã phu nhân, với thân thủ của họ Kiều này nếu như muốn đến quí phủ lấy gì thì chẳng bao giờ phải về không, lại đánh rơi cả vật trong người. Không nói trong nhà chỉ có ba người đàn bà, dẫu có hoàng cung nội điện, tướng phủ trướng soái, trong chốn thiên quân vạn mã mà Kiều mỗ muốn lấy chưa chắc đã không xong.
Mấy câu nói đó nghe thật hào hùng, Cái Bang ai cũng biết tài nghệ ông ta đều cảm thấy thật là hữu lý không ai bảo rằng nói ngoa. Mã phu nhân chỉ cúi đầu không nói lời nào.
Kiều Phong vòng tay cùng tất cả mọi người thi lễ nói:
- Thanh sơn bất cải, lục thủy trường lưu, hỡi các anh em, mình sẽ có ngày gặp lại. Kiều mỗ là người Hán cũng vậy, mà là người Khất Đan cũng vậy, quyết không bao giờ hại mạng người Hán đâu. Nếu vi phạm lời thề, nguyện như chiếc đao này.
Nói xong ông quay sang phía Đơn Chính lăng không chộp một cái. Đơn Chính chỉ thấy cổ tay tê buốt, ngón tay lỏng ra đơn đao đã bị Kiều Phong cướp mất rồi. Kiều Phong ngón cái và ngón giữa tay phải cong lại búng vào sống đao một cái, nghe coong một tiếng, thanh đao đã gãy làm hai, đầu đao văng ra mấy thước, cán đao vẫn còn ở trong tay. Ông quay qua nói với Đơn Chính:
- Xin lỗi!
Ông ném cán đao xuống đất, quay mình đi thẳng. Mọi người ai nấy ngạc nhiên, có người vội vàng gọi vói theo:
- Bang chủ khoan đi đã.
- Cái Bang toàn nhờ vào bang chủ chủ trì đại cuộc.
- Bang chủ mau quay lại đi.
Bỗng dưng nghe vù một tiếng, một chiếc gậy tre từ trên không ném xuống, chính là Kiều Phong cầm Đả Cẩu Bổng vứt trở lại. Từ trưởng lão giơ tay đón lấy, tay phải vừa cầm vào cây gậy tre, tự nhiên một luồng kình lực từ bàn tay chạy lên cánh tay, từ cánh tay lan ra toàn thân khiến ông bị chấn động mạnh chẳng khác gì bị sét đánh trúng. Ông ta vội buông ra, dư lực của chiếc gậy vẫn còn, cắm thẳng xuống đất.
Người trong Cái Bang cùng kinh hoảng kêu lên nhìn vào vật tối quan trọng của bản bang “thấy bổng như thấy bang chủ” kia, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Mặt trời lúc ấy vừa nhô lên, từng luồng ánh sáng ngoằn ngoèo từ những tàn cây xuyên qua kẽ lá, rọi vào Đả Cẩu Bổng sáng bóng như thoa dầu. Đoàn Dự kêu lên:
- Đại ca, đại ca! Cho tiểu đệ theo với.
Chàng cất bước chạy theo Kiều Phong nhưng chỉ được ba bước bỗng cảm thấy không thể nào rời Vương Ngữ Yên được, quay lại nhìn nàng một cái. Chỉ vừa nhìn một lần đã thấy lưu luyến tưởng như có nghìn vạn sợi dây tơ kéo chàng trở lại bên cạnh Vương Ngữ Yên nói:
- Vương cô nương, bây giờ các cô đi đâu đây?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Biểu ca bị người ta vu oan, xem chừng chính anh ta cũng chưa biết, phải đi tìm cho anh ta hay mới được.
Đoàn Dự trong lòng chua xót, chẳng biết làm sao hơn nói:
- Ồ, ba vị đều là những cô nương trẻ tuổi, đi lại đường xa thật không nên, để tôi hộ tống các cô vậy nhé.
Chàng lại thêm một câu như tự giải thích cho mình:
- Đã từng nghe nhiều đến anh danh Mộ Dung công tử, tôi cũng mong được gặp y một lần.
Chỉ nghe Từ trưởng lão sang sảng nói:
- Làm thế nào để rửa hận cho Mã phó bang chủ, mình phải bàn tính cho kỹ càng. Có điều bản bang không thể một ngày vô chủ, Kiều... Kiều Phong đã đi rồi, chức vị bang chủ này do ai kế nhiệm là chuyện gấp rút không thể trì hoãn được. Cũng may tất cả mọi người đều có ở đây, vậy mình bàn tính luôn cho được việc.
Tống trưởng lão nói:
- Cứ như ý ta, tất cả bọn mình đi tìm Kiều bang chủ trở lại, xin ông ta hồi tâm chuyển ý, không nên từ nhiệm...
Ông ta nói chưa dứt câu bên phía tây đã có người kêu lên:
- Kiều Phong là Khất Đan Hồ Lỗ làm sao có thể làm thủ lãnh bọn ta được? Hôm nay tất cả còn nghĩ tới tình cũ nghĩa xưa, lần tới gặp lại đã thành cừu địch thể nào cũng vào thế nước lửa, một trận sống mái mới xong.
Ngô trưởng lão cười khẩy hỏi lại:
- Ngươi thử xem có sống mái nổi với Kiều bang chủ hay không?
Người kia giận dữ đáp:
- Một mình ta đánh y không lại nhưng mười người thì sao? Mười người không xong thì một trăm người? Nghĩa sĩ Cái Bang trung tâm báo quốc, không lẽ thấy địch lại rụt đầu rụt cổ?
Mấy câu của y quả khẳng khái hiên ngang, trong đám phía tây không ít kẻ hò reo tán thưởng. Tiếng reo hò chưa dứt bỗng phía tây bắc có tiếng người lạnh tanh nói:
- Cái Bang hẹn người ta đến Huệ Sơn, bỏ hẹn không đến thì ra thập thò tụ hội nơi đây, ha ha ha, thật quả nực cười!
Giọng đó phát âm không đúng, vừa như lưỡi đầy mồm, lại như mũi bị nghẹt, sắc nhọn như dao đâm vào tai, nghe thật khó chịu. Đại Nghĩa phân đà Tưởng đà chủ, Đại Dũng phân đà đà chủ cùng kêu “chao ôi” một tiếng nói:
- Từ trưởng lão, bọn ta lỡ mất ước hội, bọn đối đầu đã tìm đến đây rồi.
Đoàn Dự cũng nhớ lại lúc ban ngày mới gặp Kiều Phong ở tửu lâu từng nghe thấy có người đến bẩm báo với ông ta ước định ngày mai sáng sớm cùng với người của Nhất Phẩm Đường của nước Tây Hạ gặp nhau tại Huệ Sơn. Khi đó Kiều Phong xem chừng quá ư gấp rút nhưng cũng bằng lòng, bây giờ đã qua giờ Mão, phần lớn người trong Cái Bang không biết có cuộc hẹn này, mà nếu có biết thì cũng đang lo việc đại sự trong bang, không ai để ý gì tới ước hội nữa, bây giờ nghe đối phương mỉa mai mới giật mình nhớ lại.
Từ trưởng lão hỏi liên tiếp:
- Ước hội gì thế? Bên kia là ai?
Ông đã lâu không nhúng tay vào sự vụ trong bang nên hoàn toàn không hay biết gì cả. Chấp Pháp trưởng lão hỏi nhỏ Tưởng đà chủ:
- Có phải Kiều bang chủ bằng lòng gặp họ hay chăng?
Tưởng đà chủ đáp:
- Đúng thế, có điều thuộc hạ đã phụng mệnh Kiều bang chủ phái người đến Huệ Sơn yêu cầu đối phương hoãn lại bảy ngày.
Người nói giọng khó nghe kia quả là thính tai, Tưởng đà chủ chỉ nói nhỏ mấy câu y đã nghe được nói:
- Đã ước hẹn rồi, đâu có thể nào hoãn lại bảy ngày, tám ngày gì được? Hoãn lại nửa giờ cũng không được?
Bạch Thế Kính giận dữ nói:
- Cái Bang chúng ta đường đường là một bang hội của Đại Tống, có sợ gì quân Hồ Lỗ Tây Hạ? Chỉ vì bản bang đang có việc trọng yếu nên không thể chu toàn công việc với bọn chuột nhắt các ngươi. Thay đổi ước hội cũng là chuyện thường, có gì mà phải lầu bầu?
Đột nhiên từ trong rừng hạnh bay ra một người nằm thẳng cẳng dưới đất không cục cựa. Người đó mặt mũi máu me bê bết, cổ họng đã bị cắt đứt, chết từ bao giờ, người trong Cái Bang nhận ra chính là Tạ phó đà chủ của Đại Nghĩa phân đà. Tưởng đà chủ vừa kinh hoàng vừa tức tối nói:
- Tạ huynh đệ do tôi sai đi thay đổi kỳ hẹn.
Chấp Pháp trưởng lão nói:
- Từ trưởng lão, bang chủ không có mặt nơi đây, xin trưởng lão tạm nắm quyền bang chủ.
Ông ta không muốn tiết lộ chuyện trong bang vô chủ để khỏi bị đối phương coi nhẹ. Từ trưởng lão hội ý nghĩ thầm lúc này nếu mình không đứng ra thì sẽ không có ai chủ trì đại cục bèn dõng dạc nói:
- Người ta thường nói hai nước đang giao tranh thì không chém sứ giả. Tệ bang phái người lại xin đổi hẹn kỳ, sao lại giết y là sao?
Giọng lạnh lẽo kia trả lời:
- Người này thần thái phách lối, nói năng vô lễ gặp tướng quân bên ta không chịu quì lạy nên đâu để y sống được?
Người của Cái Bang nghe thế ai nấy nổi sùng, lắm người cất tiếng chửi rủa ồn cả lên. Từ trưởng lão đến lúc này vẫn chưa biết đối phương là hạng người gì, nghe Bạch Thế Kính gọi là "Tây Hạ Hồ Lỗ", người kia lại nói "tướng quân bên ta" khiến ông càng không biết đâu mà mò bèn nói:
- Ngươi thập thò lấp ló sao không dám ra mặt? Nói năng lếu láo chỉ giỏi tài huênh hoang là sao?
Người kia cười sằng sặc nói:
- Đứa nào mới là thập thò lấp ló nơi rừng hạnh?
Bỗng từ đằng xa có tiếng kèn kêu u u, rồi nghe văng vẳng cách chừng vài dặm có tiếng một đoàn ngựa chạy. Từ trưởng lão ghé tai hỏi nhỏ Bạch Thế Kính:
- Bọn này là bọn nào? Có chuyện gì thế?
Bạch Thế Kính cũng thì thầm:
- Nước Tây Hạ có một võ quán gọi là Nhất Phẩm Đường do quốc vương nước đó lập ra chiêu tập những kẻ võ công cao cường dùng trọng lễ cung phụng để dụ họ truyền thụ võ nghệ cho quân quan.
Từ trưởng lão gật đầu nói:
- Nước Tây Hạ chỉnh đốn binh mã, luyện tập võ nghệ, chẳng phải có ý dòm ngó giang sơn nhà Đại Tống hay sao?
Bạch Thế Kính nói nhỏ:
- Chính là thế đó. Phàm những người đã vào được Nhất Phẩm Đường đều phải là võ công đệ nhất thiên hạ. Chỉ huy Nhất Phẩm Đường là một vị vương gia, được phong tới chứ Chinh Đông Đại Tướng Quân, tên đâu là Hách Liên Thiết Thụ.
Cứ theo như anh em Dịch Đại Bưu được bản bang phái qua Tây Hạ dò thám báo về, gần đây Hách Liên Thiết Thụ dẫn các võ sĩ trong quán đi qua Biện Lương triều kiến Thái Hậu và hoàng thượng nhà Đại Tống chúng ta.
Thế nhưng triều kiến chỉ là giả vờ, thực ra là đi dò thám hư thực ra sao. Bọn chúng biết bản bang là một trong những cây cột lớn của võ lâm Đại Tống nên định ra tay tiêu diệt, trước là để gây uy thế, sau là khi đưa binh xâm phạm biên giới sẽ dễ dàng thẳng đường tiến vào.
Từ trưởng lão trong bụng hãi thầm hạ giọng:
- Cái kế đó thật là ác độc.
Bạch Thế Kính đáp:
- Gã Hách Liên Thiết Thụ kia rời Biện Lương liền đến tổng đà của chúng ta ở Lạc Dương. Cũng may khi đó Kiều bang chủ dẫn tất cả chúng ta đi Giang Nam để báo thù cho Mã phó bang chủ nên bọn Tây Hạ không kiếm được gì. Thế nhưng bọn chúng không chịu bỏ cuộc cũng đuổi theo xuống Giang Nam, sau cùng định ước hội với Kiều bang chủ.
Từ trưởng lão trầm ngâm rồi nói:
- Nếu như vậy bọn chúng tính toán trước là tiêu diệt Cái Bang, không chừng sau đó sẽ tấn công chùa Thiếu Lâm rồi đánh cho các môn phái Trung Nguyên một trận tan tành.
Bạch Thế Kính nói:
- Nói thì nói vậy nhưng bọn võ sĩ Tây Hạ có làm được không lại là chuyện khác. Bọn chúng được bao nhiêu mà phách lối làm vậy? Kiều bang chủ cũng biết ít nhiều, khổ nỗi ông ta ở lúc khẩn cấp quan đầu này...
Nói tới đây ông ta cảm thấy không ổn nên ngừng lại không nói nữa. Khi đó tiếng chân kéo tới đã gần, nghe thấy ba tiếng kèn gấp rút nổi lên, tám con tuấn mã chia ra hai hàng chạy thẳng vào rừng. Tám người ngồi trên lưng ngựa đều cầm giáo dài, trên đầu giáo có treo một lá cờ nhỏ, mũi giáo lấp lánh, phía bên trái trên bốn lá cờ có thêu hai chữ “Tây Hạ” bằng chỉ trắng còn bên phải thì là hai chữ “Hách Liên”, ngoài ra còn thêu những chữ Tây Vực ngoằn ngoèo. Kế đó lại có tám con ngựa khác chia thành hai hàng chạy vào, trên lưng ngựa bốn người cầm kèn, bốn người đánh trống.
Người của Cái Bang ai nấy cau mày: “Họ giàn trận chẳng khác gì hai bên giao binh chứ nào có phải anh hùng hảo hán trong võ lâm gặp gỡ đâu?”. Theo sau đoàn kèn trống là tám võ sĩ Tây Hạ. Từ trưởng lão thấy tám gã này chỉ nhìn thoáng đã biết đều là võ công thượng thừa nghĩ bụng: “Xem ra đây là những nhân vật trong Nhất Phẩm Đường”.
Tám tên võ sĩ đó chia ra đứng hai bên, kế đó một người cưỡi ngựa chậm rãi đi vào. Người đó mặc cẩm bào màu đỏ, tuổi chừng ba mươi tư, ba mươi nhăm, mũi khoằm khoằm để râu mép chảy sang hai bên. Theo sau y là một người thân hình cực cao, mũi to xù vừa vào trong rừng đã quát lớn:
- Chinh Đông Đại Tướng Quân của Tây Hạ giá lâm, bang chủ Cái Bang mau ra bái kiến.
Giọng nói nghe quái đản chính là người hồi nãy mới nói chuyện. Từ trưởng lão nói:
- Bang chủ bản bang không có mặt nơi đây, lão hủ thay mặt bang chủ trông coi bang vụ. Anh em Cái Bang là thảo mãng trên chốn giang hồ, nếu tướng quân nước Tây Hạ dùng khách lễ để gặp gỡ thì anh em chúng tôi không dám vói cao. Xin mời tướng quân đi bái hội vương công quan trưởng nhà Đại Tống chứ đừng đến gặp bọn ăn mày xin cơm thừa canh cặn này làm gì. Còn như dùng thân phận đồng đạo võ lâm gặp nhau, tướng quân từ xa đến là khách, xin mời xuống ngựa xử với nhau theo lễ tân chủ.
Mấy câu nói đó không hạ mình mà cũng không ngạo mạn, cũng không đắc tội với đối phương, lại giữ được vai trò của mình. Ngưới trong Cái Bang đều nghĩ thầm: “Đúng là gừng càng già càng cay, Từ trưởng lão xử sự thật đúng phép”.
Gã mũi to lại nói:
- Nếu như bang chủ quí bang không có nơi đây thì tướng quân chúng ta không thể dùng lễ đãi các ngươi được.
Y liếc qua nhìn thấy cây gậy đánh chó còn cắm dưới đất biết đó là vật rất quan trọng của Cái Bang bèn nói:
- Ồ, cái gậy tre kia xanh biếc sáng bóng thế này lấy đem về làm cán chổi thì thật tốt quá.
Y vung tay một cái chiếc roi ngựa liền tung ra cuốn vào Đả Cẩu Bổng. Người trong Cái Bang cùng quát tháo:
- Cút ra mau!
- Con bà ngươi!
- Đồ Thát tử chó má!
Chiếc roi của y sắp sửa cuốn vào cây gậy đánh chó, đột nhiên thấp thoáng có một bóng người đã phóng xéo ra, chặn ngay trước Đả Cẩu Bổng, vươn cánh tay để cho chiếc roi ngựa cuốn lấy. Người đó co tay lại, gã mũi to không còn cách nào ngồi vững trên yên được nữa phải nhảy chồm tới đứng xuống đất. Hai người cùng sử kình, nghe soẹt một tiếng chiếc roi đứt ra làm hai. Người đó vòng tay cầm lấy cây gậy không nói không rằng quay trở về chỗ cũ.
Mọi người nhìn ra thấy ông ta lụ khụ hom hem, chính là Truyền Công trưởng lão. Ông ta võ công rất cao cường, bình thời ít nói nhưng khi món trọng khí của Cái Bang bị nguy nan, lập tức xông ra bảo vệ, chỉ trong một chiêu đã kéo được gã mũi to rơi xuống đất lại giựt chiếc roi ngựa đứt đôi xem như đối phương đã thua rồi.
Gã mũi to tuy bị thất thế nhưng vẫn thản nhiên như không nói:
- Bọn ăn mày ăn nhặt quả nhiên tính khí hẹp hòi, đến một khúc tre cũng chẳng chịu cho ai.
Từ trưởng lão nói:
- Các anh hùng hảo hán nước Tây Hạ định ước hội với tệ bang là để làm gì?
Gã kia đáp:
- Tướng quân chúng ta nghe nói bọn ăn mày của Trung Nguyên có hai tài vặt, một là phép dùng gậy đập mèo, hai là mười tám cách bắt rắn nên muốn xem chơi.
Người trong Cái Bang nghe y nói ai nấy đều sôi gan, gã này rõ ràng có ý nhục mạ, cố ý đổi Đả Cẩu Bổng Pháp thành Đả Miêu Bổng Pháp, đem Hàng Long Thập Bát Chưởng đổi thành Hàng Xà Thập Bát Chưởng, xem ra buổi gặp gỡ hôm nay không thể tránh khỏi được một phen ác đấu sống chết, mất còn.
Trong khi quần cái hò la chửi rủa, Từ trưởng lão, Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão các người trong bụng bồn chồn nghĩ thầm: “Môn Đả Cẩu Bổng Pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng xưa nay chỉ một mình bang chủ biết sử dụng, bọn đối đầu hẳn cũng đã nghe tiếng hai môn tuyệt kỹ này, vậy và vẫn nhơn nhơn đến khiêu chiến e rằng không phải dễ đối phó”. Từ trưởng lão nói:
- Nếu các ngươi muốn xem phép dùng gậy đập mèo và mười tám cách bắt rắn của bản bang thì cũng chẳng khó khăn chi, miễn là đem ra đây mấy con mèo mướp hoặc vài con rắn lột sẽ coi bọn ăn mày chúng ta đối phó cho mà xem. Các hạ học võ mèo hay học võ rắn?
Ngô trưởng lão bật cười ha hả nói:
- Đối phương là rồng thì bọn ta hàng long. Đối phương là rắn, ăn mày chỉ cần thò tay là bắt được.
Gã mũi to cãi cũng lại thua, đang suy nghĩ để châm chọc lại thì từ đằng sau y có tiếng người ồm ồm:
- Đánh mèo cũng được mà bắt rắn cũng xong, ra đây! Ra đây! Ai có giỏi ra đây đánh với ta một trận nào?
Nói xong y từ trong đám người bước ra, vênh váo đứng chống nạnh. Bọn ăn mày thấy y tướng mạo xấu xí, vẻ mặt hung ác, bỗng nghe Đoàn Dự kêu lên:
- Ồ, đồ nhi ơi, ngươi cũng đến đây hả? Gặp sư phụ sao không biết khấu đầu?
Thì ra chính là Nam Hải Ngạc Thần Nhạc lão tam. Y vừa thấy Đoàn Dự liền giật mình hoảng hốt, thần sắc cực kỳ ngượng ngập ấp úng:
- Ngươi... ngươi...
Đoàn Dự đáp:
- Học trò ngoan của ta ơi! Bang chủ Cái Bang là huynh trưởng kết nghĩa của ta, những người nơi đây đều là sư bá sư thúc, ngươi không được vô lễ. Mau mau trở về nhà đi thôi.
Nam Hải Ngạc Thần rống lên một tiếng khiến cho lá cây chung quanh phải rung lên xào xạc, cất tiếng chửi:
- Đồ khốn kiếp, quân chó đẻ!
Đoàn Dự sầm mặt xuống:
- Ngươi chửi ai là đồ khốn kiếp, quân chó đẻ?
Nam Hải Ngạc Thần tuy tính tình cực kỳ hung tợn nhưng nói ra không bao giờ nuốt lời, y đã từng bái Đoàn Dự làm thầy nên không dám giở nước bài bây bèn nói:
- Ta thích chửi ai thì chửi, sao ngươi cấm ta được? Ta không chửi ngươi là được.
Đoàn Dự nói:
- Hừ, ngươi gặp sư phụ sao không biết lạy thầy hỏi thăm sức khỏe? Thế thì còn ra thể thống gì nữa?
Nam Hải Ngạc Thần cố nén bực tức tiến lên quì xuống khấu đầu nói:
- Sư phụ, lão nhân gia khỏe chứ?
Y càng nghĩ càng tức, nhảy bật lên co giò chạy một mạch, vừa chạy vừa rống lên từng chập. Mọi người nghe tiếng rống đó ầm ầm như sóng triều đang lui, mỗi lúc một xa dần nhưng vẫn cuồn cuộn từng đợt thật là mãnh liệt, chỉ nghe tiếng rú đó cũng biết y võ công cao cường không sao kể xiết, trong Cái Bang họa chăng chỉ có Từ trưởng lão, Truyền Công trưởng lão một vài người có thể chống cự được với y. Đoàn Dự là một văn nhược thư sinh sao lại là sư phụ y được quả hết sức kỳ quái. Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba người biết Đoàn Dự hoàn toàn không biết võ công lại càng kinh ngạc vạn phần.
Trong đám võ sĩ Tây Hạ đột nhiên có một người nhảy ra, thân hình cao nghệu như cây tre miễu nhưng thân thủ nhanh nhẹn dị thường, hai tay cầm một loại binh khí kỳ lạ, cán dài chừng ba thước một đầu là cương trảo hình năm ngón tay. Đoàn Dự nhận ra y chính là người đứng thứ tư trong Thiên Hạ Tứ Ác, Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc nên nghĩ thầm: “Không lẽ cả bốn tên đại ác này đều đầu nhập nước Tây Hạ?”. Chàng để ý nhìn những người của nước Tây Hạ quả nhiên thấy Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương đang bồng một đứa trẻ, miệng mủm mỉm cười đứng trong đó, có điều không thấy người đứng đầu Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh mà thôi. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chỉ cần thái tử Diên Khánh không có nơi đây, nhị ác và tứ ác thì Cái Bang có thể đối phó được.
Thì ra Thiên Hạ Tứ Ác từ Đại Lý thất thế chạy lên hướng bắc, gặp phải sứ giả của Tây Hạ Nhất Phẩm Đường đi rao tìm cao thủ võ học, bọn chúng liền đầu nhập cho đỡ lẻ loi. Bốn người đó võ công cao cường biết chừng nào, chỉ cần giở một chút ra là được đón nhận ngay. Kỳ này đi qua Biện Lương, Hách Liên Thiết Thụ dẫn bọn họ theo cũng khá trọng vọng. Đoàn Diên Khánh tự nghĩ thân phận cao sang, tuy cũng ở trong Nhất Phẩm Đường nhưng đi đứng riêng không chịu kiềm thúc nên không đi chung với mọi người.
Vân Trung Hạc kêu lên:
- Tướng quân chúng ta muốn coi hai tuyệt kỹ của Cái Bang xem bọn ăn mày chúng bay có bản lãnh thực hay chỉ giỏi tài nói khoác, mau mau ra đây.
Hề trưởng lão nói:
- Để ta ra cao thấp một phen.
Từ trưởng lão dặn:
- Gã này khinh công rất cao cường, Hề huynh đệ phải cẩn thận.
Hề trưởng lão đáp:
- Vâng!
Ông ta xách cương trượng, đi đến đứng trước mặt Vân Trung Hạc nói:
- Tuyệt kỹ của bản bang cũng tùy người mà dùng. Những kẻ vô danh tiểu tốt như các hạ việc gì phải dùng đến Đả Cẩu Bổng Pháp? Coi chiêu đây!
Ông ta vung cương trượng lên tiếng gió nghe vù vù đánh xéo xuống vai Vân Trung Hạc. Hề trưởng lão thân hình lùn mập thế nhưng chiếc gậy sắt trong tay dài đến hơn một trượng, một khi múa lên tuy Vân Trung Hạc người cao như thế nhưng vẫn có thể đập từ trên cao xuống. Vân Trung Hạc nghiêng qua tránh được, nghe bình một tiếng đất cát văng lên tứ tán, cương trượng đánh xuống lõm vào cả thước. Vân Trung Hạc biết chân lực của mình kém ông ta xa nên chỉ thoắt một cái lạng qua bên đông, vụt qua bên tây sử dụng khinh công đánh vờn vờn, Hề trưởng lão múa cương trượng thành một vòng trắng xóa nhưng trước sau vẫn không chạm được đến vạt áo của Vân Trung Hạc.
Đoàn Dự còn đang ngẩn ngơ nhìn xuất thần bỗng bên tai nghe một giọng thật êm dịu nói:
- Đoàn công tử, mình giúp ai bây giờ?
Đoàn Dự nghiêng đầu nhìn qua thấy đó là Vương Ngữ Yên, trong lòng tự nhiên thấy lâng lâng sảng khoái vội hỏi lại:
- Cái gì... cái gì mà bảo giúp ai?
Vương Ngữ Yên nói:
- Gã cao nghệu kia là bạn của học trò anh, còn ông già ăn mày lùn mập thì là hạ thuộc của bả huynh anh. Hai người càng đấu càng ác liệt anh nghĩ mình nên giúp bên nào?
Đoàn Dự đáp:
- Gã học trò của tôi là đứa ác nhân, còn tên cao gầy này tính tình lại càng tồi bại hơn nữa, đừng giúp y làm gì.
Vương Ngữ Yên trầm ngâm đáp:
- Hừ, thế nhưng cả lũ ăn mày đã đuổi bả huynh anh đi không để ông ta làm bang chủ nữa, lại vu oan cho biểu ca tôi, tôi ghét họ lắm.
Trong tâm tư một cô gái như nàng, ai đối với biểu ca nàng không tốt, người đó trở thành kẻ tệ mạt nhất thiên hạ nên nói tiếp:
- Ông già lùn mập kia sử dụng hai mươi bốn đường Phục Ma Trượng của Ngũ Đài Sơn nhưng vì ông ta lùn quá thành thử hai chiêu Tần Vương Tiên Thạch, Đại Bằng Triển Xí không được hay cho lắm. Chỉ cần tấn công vào hạ bàn bên mé phải là ông ta sẽ không chống đỡ được đâu. Thế nhưng gã cao gầy kia nhìn không ra, lại tưởng hạ bàn ông già lùn vững lắm, trông vậy mà không phải vậy.
Giọng nàng nói rất nhỏ thế nhưng những cao thủ nội công tinh thâm ở đương trường đều nghe thấy cả. Những người đó hầu hết biết võ công gia số của Hề trưởng lão nhưng khuyết điểm ở chỗ nào thì lại chẳng mấy ai nhìn ra, đến khi nghe Vương Ngữ Yên chỉ điểm, bấy giờ mới thấy quả là không sai. Hề trưởng lão khi sử dụng chiêu Tần Vương Tiên Thạch và Đại Bằng Triển Xí quả thật uy mãnh hữu dư, trầm trọng bất túc, hạ bàn có chút nhược điểm.
Vân Trung Hạc quay sang liếc Vương Ngữ Yên, khen:
- Cô bé xinh xắn quá, lại có mắt tinh đời, theo ta làm vợ thì thật phải.
Y vừa nói xong, cương trảo trong tay liền tấn công bên dưới Hề trưởng lão ba chiêu liên tiếp, chiêu thứ ba Hề trưởng lão đỡ không kịp, nghe xoạt một tiếng, đùi bị Vân Trung Hạc móc một đường dài, lập tức tươm máu ra.
Vương Ngữ Yên nghe Vân Trung Hạc khen mình xinh đẹp có vẻ thích lắm, những lời khinh bạc của y không để vào đâu, mỉm cười đáp:
- Rõ xấu chưa? Ngươi có cái gì hay? Ta không lấy ngươi đâu.
Vân Trung Hạc lấy làm khoái trí nói:
- Sao lại không lấy? Chắc là tại có cái tên mặt trắng đứng kia chứ gì? Để ta giết ý trung nhân của cô trước, xem có chịu lấy ta không nào?
Câu nói đó phạm vào đại kỵ của Vương Ngữ Yên, mặt nàng liền cau lại không thèm nhìn đến y nữa. Vân Trung Hạc đang toan nói thêm mấy câu chớt nhả, Ngô trưởng lão trong Cái Bang đã nhảy ra giơ thanh quỉ đầu đao chém liên tiếp bên trái bốn nhát, bên phải bốn nhát, trên bốn nhát, dưới bốn nhát, bốn lần bốn tổng cộng mười sáu lần, thế đao cực kỳ cương mãnh. Vân Trung Hạc không biết đao pháp của ông ta thế nào chỉ còn né đông tránh tây, rụt đầu xuống, nhảy dựng lên thật là cuống quít.
Vương Ngữ Yên cười nói:
- Đao pháp của Ngô trưởng lão là Tứ Tượng Lục Hợp Đao, bên trong có chứa bát quái sinh khắc biến hóa gã gầy cao kia đâu có biết được. Giá như y sử dụng Hạc Xà Bát Đả thì Tứ Tượng Lục Hợp Đao phá dễ như chơi.
Người trong Cái Bang nghe nàng mớm lời giúp cho Vân Trung Hạc, ai nấy lộ vẻ tức tối, thấy Vân Trung Hạc lập tức biến chiêu, xoạc hai chân, cương trảo quạt ngang trông chẳng khác gì một con chim hạc. Vương Ngữ Yên ghé tai Đoàn Dự nói thầm:
- Gã sếu vườn kia bị vào tròng của tôi rồi, không chừng tay trái của y bị chém đứt.
Đoàn Dự lạ lùng hỏi:
- Sao thế?
Chỉ thấy Ngô trưởng lão đao pháp ngưng trọng, nghiêng đao hớt qua, tưởng chừng không ra chương cú gì, ra tay mỗi lúc một chậm, đột nhiên chém vụt ba đao thật nhanh, bạch quang thấp thoáng. Vân Trung Hạc “A” lên một tiếng kinh hoàng, lưng bàn tay trái đã bị lưỡi đao chém trúng, cương trảo trong tay cầm không vững, nghe keng một tiếng rơi ngay xuống đất. Cũng may thân pháp y thật nhanh, kịp nhảy ngược về sau né được ba đao tấn công tiếp theo của Ngô trưởng lão.
Ngô trưởng lão đi tới trước mặt Vương Ngữ Yên, dựng đao lên nói:
- Đa tạ cô nương.
Vương Ngữ Yên cười nói:
- Kỳ Môn Tam Tài Đao của Ngô trưởng lão quả là tinh diệu.
Ngô trưởng lão kinh ngạc nghĩ thầm: “Hóa ra cô ta vốn biết đao pháp của ta rồi”. Thì ra Vương Ngữ Yên cố ý nói đao pháp của Ngô trưởng lão thành Tứ Tượng Lục Hợp Đao, rồi theo chiêu số của Vân Trung Hạc liệu chừng y biết sử dụng Hạc Xà Bát Đả dụ y vào chỗ bị chế ngự, quả nhiên bàn tay suýt nữa bị chém đứt.
Gã mũi to giọng nói khó nghe đứng bên cạnh Hách Liên Thiết Thụ tên là Nỗ Nhi Hải, thấy Vương Ngữ Yên chỉ nói vài câu đã giúp Vân Trung Hạc đả thương Hề trưởng lão rồi lại chỉ vài câu khiến cho Ngô trưởng lão đả thương Vân Trung Hạc nên quay sang nói với Hách Liên Thiết Thụ:
- Tướng quân, cô gái người Hán kia thật là kỳ lạ, chi bằng bắt về Nhất Phẩm Đường, ép thổ lộ những gì y thị biết thể nào cũng có đại dụng.
Hách Liên Thiết Thụ đáp:
- Hay lắm! Ngươi tới bắt nó về đi.
Nỗ Nhi Hải gãi đầu, nghĩ bụng: “Cái tính của tướng quân thật khó chơi, mỗi lần ta hiến kế gì y đều chỉ nói: Hay lắm, ngươi làm đi. Hiến kế thì dễ làm mới khó, xem ra tiểu cô nương kia võ công cao siêu không biết đến đâu mà kể, ta dại gì lộ cái dở ra trước mặt cô ta. Hôm nay chính là lúc bọn ăn mày tụ tập nơi đây, tốt hơn hết là tiên hạ thủ vi cường”. Y giơ tay ra hiệu, bốn tên hạ thuộc lập tức đi ra.
Nỗ Nhi Hải tiến lên mấy bước nói:
- Từ trưởng lão, tướng quân chúng ta muốn xem Đả Cẩu Bổng Pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng, các ngươi có gì hay thì đưa ra, còn như không biết, bọn ta không có hơi đâu mà chờ, thôi ta đi đây.
Từ trưởng lão cười khẩy đáp:
- Các cao thủ trong Nhất Phẩm Đường của quí quốc, khoe mình võ công hạng nhất, hóa ra chỉ bình thường không có gì xuất sắc, nếu như muốn xem Đả Cẩu Bổng Pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng e rằng chưa xứng.
Nỗ Nhi Hải nói:
- Thế nào mới xứng?
Từ trưởng lão đáp:
- Trước hết phải đánh bại bọn ăn mày vô tích sự chúng ta đã, đầu não của Cái Bang lúc đó mới ra mặt...
Ông vừa nói tới đây đột nhiên ho sù sụ, tiếp theo hai mắt đau nhức không sao mở ra được, nước mắt chảy dầm dề nên kinh hãi vội nhảy vọt lên, nín thở đá luôn ba cái. Nỗ Nhi Hải không ngờ ông già tóc đã trắng xóa nhưng nói đánh là đánh ngay, thân thủ lại còn nhanh đến thế vội vàng tránh ra nhưng chỉ tránh được chỗ yếu hại trên ngực, đầu vai vẫn bị đá trúng, lảo đảo mấy cái mới mượn thế nhảy vọt về sau. Từ trưởng lão nhảy lên lần thứ hai còn đang ở trên không đã thấy chân tay uể oải, rơi xuống đất đánh bịch một cái.
Người của Cái Bang kêu réo om sòm:
- Không xong rồi, bọn Thát tử chơi bẩn.
- Mắt tôi dính cái gì thế này?
- Tôi không mở mắt được.
Mọi người ai nấy mắt đau đớn, nước mắt đầm đìa. Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba người cũng chịu chung số phận không sao mở mắt được.
Thì ra chỉ trong khoảnh khắc, người Tây Hạ đã tung ra Bi Tô Thanh Phong là một loại độc khí không mùi vị, không mầu sắc. Thuốc này chế thành nước lấy từ những độc vật trong Hoan Hỉ Cốc ngoài Đại Tuyết Sơn nước Tây Hạ, bình thời để trong bình, người hạ độc khi sử dụng nhét sẵn thuốc giải trong mũi, khi mở nắp lập tức độc thủy biến thành hơi bay ra, thoang thoảng như gió nhẹ nên dù người có tinh ý cách nào cũng không phát giác được, đến khi mắt thấy đau nhói thì độc khí đã xâm nhập đầu não.
Người trúng độc nước mắt đầm đìa nên gọi là “bi”, toàn thân không cử động được nên gọi là “tô”, độc khí không màu sắc, không mùi vị nên gọi là “thanh phong”.
Chỉ nghe “Ôi chao”, “Trời ơi” liên tiếp, quần cái thi nhau ngã gục. Đoàn Dự vì đã ăn phải Mãng Cổ Chu Cáp, vạn độc bất xâm Bi Tô Thanh Phong tuy đã hút vào mũi rồi nhưng chàng không ”bi” mà cũng chẳng “tô”, thấy bọn ăn mày cùng Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ai nấy tỏ vẻ đau đớn chẳng hiểu tại sao, trong bụng không khỏi hoảng hốt.
Nỗ Nhi Hải lớn tiếng hò hét, chỉ huy bọn võ sĩ trói người trong Cái Bang, còn mình thì đến trước mặt Vương Ngữ Yên, giơ tay toan nắm cổ tay nàng. Đoàn Dự quát lên:
- Ngươi làm gì thế?
Trong cơn gấp gáp, ngón tay trỏ tay phải búng một cái, một luồng chân khí từ đầu ngón tay bắn vọt ra nghe vèo vèo, chính là Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn nước Đại Lý. Nỗ Nhi Hải chưa từng nếm mùi nên không để ý, vẫn tiếp tục xông tới nắm tay Vương Ngữ Yên, đột nhiên nghe cắc một tiếng, cánh tay phải không hiểu sao đã gãy lìa, treo lủng lẳng. Nỗ Nhi Hải thảm thiết kêu lên một tiếng, vội đứng lại.
Đoàn Dự cúi xuống bồng Vương Ngữ Yên lên, thi triển Lăng Ba Vi Bộ, bước lệch qua ba bước, lại ngang hai bước chạy ra khỏi đoàn người. Diệp Nhị Nương tay phải vung ra, một mũi độc châm bắn thẳng vào lưng chàng. Mũi độc châm đó đường đi lẫn kình lực nhắm rất chính xác, Đoàn Dự vốn không thể nào tránh được. Thế nhưng bộ pháp của chàng, lúc thì đi xéo, lúc lại lui về đến khi độc châm đến nơi thì chàng đã ở bên phải ba thước rồi.
Ba tên hảo thủ trong đám võ sĩ Tây Hạ liền nhảy lên ngựa, hò hét đuổi theo. Đoàn Dự lạng người đến gần một con tuấn mã, đặt Vương Ngữ Yên nằm ngang trên yên, sau đó nhảy lên, giật cương chạy.
Võ sĩ Tây Hạ vốn đã canh gác những điểm trọng yếu chung quanh rừng hạnh, thấy Đoàn Dự chạy ra, lập tức phóng tên nhưng nhờ có những cây hạnh chắn đỡ, hơn chục mũi lang nha vũ tiễn đều cắm ngập vào thân cây.
Đoàn Dự kêu lên:
- Ngựa ngoan ơi là ngựa ngoan, ngươi chạy càng nhanh càng tốt! Về nhà ta cho ngươi ăn gà, ăn thịt, ăn cá ăn dê.
Chàng quên mất một điều ngựa đâu có ăn thịt, chỉ ăn cỏ mà thôi
1 Hoàng Đế (Yellow Emperor) theo truyền thuyết là một trong những vì vua thủy tổ của người Trung Hoa.
2 Hiện nay ở Sơn Tây cách huyện Đại ba mươi dặm về hướng Tây Bắc. Thời Đường cửa ải này ở trên đỉnh núi cao, tới thời Nguyên thì phế bỏ. Qua đời Minh mới dời xuống thung lũng giữa hai ngọn núi và tồn tại cho tới ngày nay.
3 Tấm lòng thương xót ai ai cũng có cả
4 sơ xuất mao lô, ý nói vừa mới ra đời dùng theo điển trong Tam Quốc Khổng Minh ra khỏi lều tranh để giúp Lưu Bị.
5 Chữ lót nhà họ Đơn đặt theo lối cổ Mạnh Trọng Thúc Quí Tiểu (xin xem thêm Người Trung Hoa đặt tên thế nào? của Nguyễn Duy Chính)
6 Theo Tây lịch thì là năm 1083, Kiều Phong đã làm bang chủ được 8 năm vậy hiện thời là năm 1091 hay 1092 (Nguyên Tá thứ 6)
7 Hệ Từ Thượng, Dịch Kinh: Mạn tàng hối đạo, dã dung hối dâm có tiền của mà không dấu cho kỹ thì sẽ dễ dẫn dụ đạo tặc vào, có nhan sắc mà phô ra cho người ta thấy có khác gì dụ người ta vào chuyện dâm ô.
8 Người vợ góa, chữ văn vẻ
9 Tên một nước ở Tây Vực đời Hán, sau đổi thành Thiện Thiện nay thuộc Tân Cương đã chìm vào trong sa mạc.
10 Núi biếc kia còn đó, Sông xanh vẫn chảy hoài.
11 Anh em kết nghĩa
12 vua Tần dùng roi đánh vào tảng đá
13 bi là buồn bã, tô là mềm nhũn
Bài liên quan